|
Buổi Mít-tinh của Tổng Đoàn Công Chức chào mừng chính phủ Trần Trọng Kim ngày 17 tháng 8 năm 1945.
|
Có lẽ đa số các bạn đều đã được giáo dục rằng biến cố
lịch sử với tên gọi “Cách mạng tháng Tám” (CMT8) là một “mốc son đánh dấu nước
ta thoát khỏi ách đô hộ của Pháp và gông xiềng Nhật”. Cuộc “cách mạng” này đã dẫn
tới sự kiện mà ngày nay chúng ta gọi là “Quốc khánh” – mồng 2/9. Thêm nữa, năm
1945 đánh dấu nạn đói khủng khiếp nhất lịch sử Việt Nam, thảm cảnh 2 triệu đồng
bào chết đói đã trở thành nổi ám ảnh qua nhiều thế hệ gia đình Bắc Việt Nam.
Thế nhưng, lịch sử thì luôn phức tạp hơn những gì mà chúng ta vẫn được tuyên
truyền. Và tuy nhiều bạn đã nắm rõ sự thật về cuộc nội chiến kéo dài 21 năm sau
biến cố đó, song về sự kiện diễn ra vào ngày này cách đây 72 năm thì vẫn rất mơ
hồ. Vậy rốt cục thì chuyện gì đã xảy ra vào quãng thời gian này? Hãy cùng chúng
tôi tìm hiểu dưới một góc nhìn khác.
1. Trước CMT8, Việt Nam tồn tại mấy thế
lực ?
Có thể nói rằng tại Việt Nam thời kỳ đó tồn tại rất nhiều thế lực chính trị
khác nhau: Pháp có, Nhật có, cũng như một chính phủ độc lập về mặt chính trị song
vẫn phụ thuộc vào quân sự của Nhật với tên gọi “Đế quốc Việt Nam”. Ngoài ra,
không thể không nhắc đến sự xuất hiện thầm lặng tới tưởng chừng như vô hình của
Mỹ và hiển nhiên là phe cánh Việt Minh.
Điều đáng chú ý nhất ở đây là về chính phủ Đế quốc Việt
Nam của Trần Trọng Kim - một trong những thể chế Dân chủ đầu tiên, được triều
đình phong kiến ủng hộ và là nền móng quan trọng cho sự hình thành của Việt Nam
Cộng Hoà sau này, dù chỉ tồn tại trong vòng 4 tháng (17-04-1945 đến
19-08-1945).
+ Chính phủ Trần Trọng Kim :
Chính phủ Trần Trọng Kim có thể nói là một tai nạn lịch sử, vì sao nói là một
tai nạn lịch sử? Điều này đã được ông thừa nhận trong hồi ký của mình. Lúc ấy
ông giáo gần lục tuần đã phải ngồi vào bàn cờ chính trị, đối mặt với một đất nước
nghèo đói. Sau này trong hồi ký của ông, vị thủ tướng bất đắc dĩ này đã kể lại
rằng sau gần mười ngày chờ đợi và cứ cách ba bốn hôm ông lại đến gặp cố vấn tối
cao Nhật - Yuichi Tsuchihashi để hỏi tin tức về ông Diệm để được trả lời là
“chưa biết ông Diệm ở đâu” sau là “ông Diệm đau chưa về được”, rồi vì vua Bảo Đại
“sốt ruột, triệu tôi vào bảo chịu khó lập chính phủ mới”. Tâm sự của hai người
đã được giãi bày qua lời kể lại sau đây.
“Ngài (vua Bảo Đại) nói:”Trước kia người mình chưa độc lập. Nay có cơ hội, tuy
chưa phải độc lập hẳn, nhưng mình cũng phải tỏ ra có đủ tư cách để độc lập. Nếu
không có chính phủ thì người Nhật bảo mình bất lực, tất họ lập cách cai trị
theo thể lệ nhà binh rất hại cho nước ta. Vậy ông nên vì nghĩa vụ cố lập thành
một chính phủ để lo việc nước.Tôi thấy vua Bảo Đại thông minh và am hiểu tình
thế, liền tâu rằng:- Nếu vì quyền lợi riêng tôi không dám nhận chức gì cả, xong
Ngài nói vì nghĩa vụ đối với nước, thì dù sao tôi cũng cố hết sức. Vậy xin Ngài
cho tôi vài ngày để tôi tìm người, hễ có thể được tôi xin tâu lại.”
Đến thời điểm này ta đã thấy cụ Diệm đã là một người có tiếng nói trên chính
trường, sau thời gian du học tại Pháp và biến cố tháng 8 đã ngăn cản ông quay về
tiếp quản Quốc gia, trong nước ông Nhu - em của cụ Diệm đã thành lập một đảng
riêng hoạt động bí mật dưới con mắt dè chừng của Pháp tại chính tư dinh ở Đà Lạt
sau khi vua Bảo Đại thoái vị về đây sinh sống. Tiếp nữa, ông đã mở rộng hoạt động
xuống đến tận sài Gòn chờ ngày anh trai về nước nhậm chức Tổng thống Quốc gia
đa nguyên đầu tiên trong lịch sử nước nhà mang tên gọi Việt Nam Cộng Hòa vào
năm 1955 - dưới sự chấp thuận của vua Bảo Đại, lúc này đã lưu vong sang Pháp,
trở thành kẻ tội nghiệp cho chính những điều mình không gây ra.
Vì mới thành lập quân đội của Đế quốc Việt Nam phụ thuộc
chủ yếu vào quân Nhật, kẻ thua cuộc sau Thế Chiến II, đã đầu hàng và khát vọng
duy nhất của Nhật không còn là lợi ích kinh tế và quân sự mà là làm sao khôi phục
lại tầm ảnh hưởng bằng hình thức "Khối Đại Đông Á" của mình, tư tưởng
này đã được ông Chương - tiến sĩ Luật khoa đầu tiên của Việt Nam, cha đẻ của bà
Đệ nhất phu nhân Trần Lệ Xuân bảo rằng "Ít ra Nhật không đánh giá sự ưu việt
qua màu da như Pháp". CP Quốc gia Việt Nam đã thi hành nhiều cải cách dưới
bàn tay hậu thuẫn của cựu hoàng Bảo Đại : Ủy Ban dư thảo Hiếp Pháp do gồm 15
thành viên ; Ủy ban cải cách cai trị, tư pháp và tài chánh ; Ủy ban cải cách
giáo dục ; cuối cùng ngày 1-7-1945 vua Bảo Đại ban hành bô luật thành lập Hội đồng
tư vấn Quốc gia gồm cả ba ủy ban cải cách trên).
Và Trần Trọng Kim đã thành lập được một chính phủ với danh sách các bộ trưởng
được đệ trình lên nhà vua vào sáng ngày 17 tháng 4 năm 1945. Chính phủ đầu tiên
của một nước Việt Nam độc lập này gồm có một thủ tướng với danh xưng nội các tổng
trưởng và mười bộ trưởng với hai người là giáo sư, bốn người là y sĩ, bốn người
là luật sư và một người là kỹ sư. Đây là lần đầu danh xưng bộ trưởng đã dùng
thay cho danh xưng thượng thư, cùng với sự xuất hiện của nhiều bộ mới như ngoại
giao, thanh niên, y tế, tiếp tế… nhằm đáp ứng nhu cầu của thời cuộc, thay vì chỉ
có lục bộ như thời trước. Trong số các bộ, không bộ quốc phòng. Trần Trọng Kim
trong hồi ký của ông có giải thích điều này bằng nhiều lý lẽ, nhưng sự thiếu vắng
bộ quốc phòng đã gây ra cho chính phủ của ông nhiều trở ngại khi tình thế thay
đổi và nhất là khi quân Nhật bị giải giáp và Việt Minh cướp chính quyền.
Tìm hiểu về con người Trần Trọng Kim, với bản chất là một nhà giáo, một tác giả
của bộ sách Giáo Khoa Thư cho đến hiện tại người ta vẫn còn in lại và vẫn còn
ưa đọc và viết nhiều về nó, với bản chất là một nhà nghiên cứu về lịch sử, triết
học, một dịch giả của thơ Đường, đặc biệt là Việt Nam Sử Lược, một tác phẩm vừa
là giáo khoa, vừa là nghiên cứu phổ thông cho đến những ngày hiện tại vẫn còn
được nhiều người tin cậy và cẩn trọng giữ gìn.
Là một nhà giáo và một nhà nghiên cứu không đảng phái, không bè đảng, không có
sẵn người, "nhà chính trị bất đắc dĩ " đã dựa theo tiêu chuẩn phải có
đủ học thức và tư tưởng về mặt chính trị, phải có đức hạnh chắc chắn để dân
chúng kính phục. Về giáo dục, chính phủ chủ trương dùng quốc ngữ giảng dạy thay
chữ Pháp, và rất chú trọng đến ngành giáo dục kỹ thuật. Cầm quyền chưa được hai
tháng, vào ngày 8- 6-1945, chính phủ quy định rằng từ đây, chữ quốc ngữ và tiếng
Việt là ngôn ngữ chính thức ở các công sở và trường học. Trong trường học, Pháp
văn được giảng dạy như một ngoại ngữ. Kỳ thi tiểu học năm nay là kỳ thi đầu
tiên bằng quốc ngữ, và dự định sẽ dùng quốc ngữ trong các kỳ thi cao hơn. Chương
trình trung tiểu học được Việt Nam hóa, do bộ trưởng bộ Giáo dục Hoàng Xuân Hãn
đưa ra. Chương trình này là nền tảng căn bản cho chương trình giáo dục của các
chính phủ trong chính thể Quốc Gia Việt Nam và Việt Nam Cộng Hòa sau này.
Vượt qua tất cả mọi khó khăn, Trần Trọng Kim và các cộng sự viên của ông đã vạch
ra những mục tiêu và chương trình hành động cụ thể và thực tế, từ những việc
làm có tính các tương trưng như đổi quốc hiệu thành Việt Nam, đổi quốc kỳ, duyệt
lại quốc ca… đến cứu đói, thu hồi toàn vẹn lãnh thổ, bắt các quan ở các tỉnh phải
trực tiếp liên lạc với chính phủ Việt Nam và cấm họ liên lạc trực tiếp với người
Nhật như họ vẫn liên lạc với người Pháp trước kia, Việt Nam hóa nền giáo dục, cải
tổ thuế má, tư pháp, vận động thanh niên sinh viên và cả quần chúng nói chung
tham gia sinh hoạt chánh trị, xã hội, lập các hội đồng tư vấn địa phương và vận
dụng mọi khả năng để thực hiện.
Các đoàn thanh niên này góp phần đắc lực trong việc vận động cứu đói đồng bào Bắc
Bộ. Từ đó ý thức xã hội và tinh thần dân tộc quật khởi mạnh mẽ trong giới thanh
niên. Phong trào thanh niên đang hăng say hoạt động, thì chính phủ Trần Trọng
Kim từ chức sau khi Nhật bại trận.
Điều này khẳng định không riêng Trần Trọng Kim mà luôn cả Bảo Đại “không phải
là “bù nhìn” của Nhật và nền độc lập của Việt Nam, dù chưa hoàn toàn, vẫn là một
thưc tại chứ không phải “bánh vẽ”, nhất là so với những điều kiện của một “quốc
gia tự do” và viễn tượng thống nhất mơ hồ như trong hiệp định sơ bộ 6 tháng Ba
1946 mà Hồ Chí Minh phải ký kết với Cao Ủy Bollaert”.
Sự thành lập của chính phủ Trần Trọng Kim đã đánh dấu việc đầu tiên nước ta chính
thức mang quốc hiệu "Việt Nam" - và sẽ còn giá trị đến mãi sau
này .
+ Còn về thế lực của Mỹ? Điều này
nghe có vẻ bất ngờ nhưng hóa ra lại không vì từ năm 1932 OSS (tiền thân của
CIA) đã ngấm ngầm can thiệp bảo vệ Nguyễn Ái Quốc khỏi bị tử hình tại Trung Quốc.
Vào sự kiện ngày 2/9/1945 diễn ra ở Quảng trường Ba Đình, một đội đặc nhiệm
mang tên "Nai Vàng" đã ầm thầm theo bảo vệ lãnh đạo của Việt Minh. Nhưng
vì ông ta là một con người của Công Sản III với mục tiêu: ''Biến chiến tranh đế
quốc thành nội chiến cách mạng, làm thất bại các chính phủ trong chiến tranh'',
nghĩa là đi tìm kiếm sự độc tôn đảng phái bằng con đường bạo lực vũ trang, thà
hy sinh máu của đồng bào chứ không chịu chấp nhận một nền dân chủ được Mỹ hậu
thuẫn như VNCH đã làm sau này.
2. Về nạn đói Năm Ất Dậu 1945
+ Nạn đói xảy xa có phải hoàn toàn do Nhật và Pháp?
Trước nạn đói năm ấy, ngay từ khoảng đầu Thế chiến thứ hai, các gia đình miền Bắc
đã phải sống dưới khẩu phần cho một người, và cơn đói luôn âm ỉ đâu đó trong
lòng đồng bào. Ta có thể thấy qua một số tác phẩm đương thời như “Tắt Đèn” (Ngô
Tất Tố), “Một bữa no” hay “Lão Hạc” (Nam Cao). Nạn đói bùng lên từ ngọn lửa âm ỉ
đó vào năm Ất Dậu cùng với những thất bát về mùa vụ chỉ vô tình tô đậm bức
tranh xơ xác thêm một mảng màu đen.
+ Nhà nước non trẻ của Trần Trọng Kim đã
có động thái gì ?
Một trong những chương trình hành động khẩn cấp của chính phủ Trần Trọng Kim là
giải quyết nạn đói ở Bắc bộ. Nạn đói bắt đầu từ mùa đông năm 1944, lúc đó còn
Pháp thuộc. Ngày 9-3-1945, Nhật đảo chánh Pháp ở Đông Dương.
Khi chính phủ mới được thành lập (17-4-1945), chính phủ Trần Trọng Kim ra lệnh
bãi bỏ việc bắt buộc nông gia bán lúa gạo cho nhà nước, và để cho dân chúng tự
do buôn bán gạo. Điều nầy có nghĩa là những quy định trước đây về số lượng lúa
gạo phải bán cho nhà nước theo diện tích canh tác cũng bị bãi bỏ. Người dân được
tự do vận chuyển buôn bán gạo dưới 50 kí lô mà không cần phải có giấy phép của
chính quyền.
Ở các tỉnh, những ngân hàng nông nghiệp sẽ phụ trách mua gạo cho nhu cầu quân sự
hay nhu cầu thực phẩm của chính quyền dưới sự kiểm soát của tỉnh trưởng. Những
người nghèo đói còn sống sót và những người vô gia cư được chính phủ tập trung
vào những nhà nuôi dưỡng đặc biệt để phục hồi dần dần.
Vua Bảo Đại ra sắc chỉ ngày 23-5-1945 hủy bỏ nợ nần do các tiểu nông vay tiền
nhà nước trước đây. Chính phủ cho hạ thấp mức thuế nông dân phải đóng góp. Bộ
trưởng bộ Tiếp tế Nguyễn Hữu Thí đến Sài Gòn vào đầu tháng 6-1945 để thương
thuyết với người Nhật nhằm thay đổi phương cách chở gạo từ Nam ra Bắc.
Để tránh bị phi cơ Đồng minh oanh tạc, gạo sẽ được chở bằng các đoàn thuyền buồm
thuê của thường dân. Bộ trưởng Nguyễn Hữu Thí còn đề nghị đưa 1,000,000 dân từ
Bắc bộ và Trung bộ vào định cư ở Nam bộ. Những chuyến xe hay những chiếc ghe chở
gạo từ Nam ra Bắc, khi quay trở về, thì chở di dân vào Nam lập nghiệp
Ngày 30-6-1945, chính phủ Trần Trọng Kim cho đánh thuế du hý (vui chơi, giải
trí) để lấy tiền tài trợ cho những hoạt động cứu đói ở Bắc bộ. Chính phủ mở chiến
dịch báo chí thông tin về những bất hạnh của đồng bào Bắc Bộ để kêu gọi dân
chúng tiếp tay cứu trợ. Những cuộc lạc quyên được tổ chức trên toàn quốc. Chiến
dịch này đã đem đến nhiều thành quả tích cực.
Tại Hà Nội, vào tháng 5-1945, Tổng hội Cứu tế quyên được 782,403 đồng. Với số
tiền này, Tổng hội đã mua được từ kho nhà nước 1,476 tấn gạo phát chẩn cứu đói.
Ủy ban Cứu tế Trung ương giúp đỡ Bắc bộ tại Huế và Ủy ban tương trợ giúp đỡ những
nạn nhân Bắc bộ tại Sài Gòn, được thành lập. Số tiền quyên góp được dùng mua gạo
chở ra giúp đỡ đồng bào đất Bắc.
Tại Nam Bộ, chỉ nội trong tháng 5-1945, hơn 20 hội chẩn tế ra đời, và trong vòng
một tháng đã quyên được 1,677,886 đồng, kể cả 481,570 đồng mua và chuyên chở
1,592 tấn gạo ra Bắc giúp cứu đói.
Nổi bật hơn cả và cao đẹp là hình ảnh Hoàng hậu Nam Phương gỡ bỏ trang sức trên
người quyên góp cho Hội, hình ảnh đẹp này đã diễn ra dưới thời kỳ Quốc Gia Việt
Nam chứ không phải là chế độ VNDCCH như chúng ta vẫn được tuyên truyền.
Đây là lần đầu tiên giới trẻ Việt Nam thực sự bắt tay vào hoạt động xã hội. Những
biện pháp của chính phủ cùng sự tiếp tay của đồng bào toàn quốc, đã làm cho
tình hình Bắc Bộ nhanh chóng trở lại bình thường. Vẫn còn một vài nơi người
nghèo sắp hàng trước các điểm phân phối thực phẩm miễn phí, nhưng nói chung
tình hình khá ổn định vào tháng 6-1945.
Nạn đói tưởng đã qua đi. Mặc dầu "Ủy ban Bảo vệ và Giám sát đê điều" được
thành lập để lo việc giữ đê, ngăn ngừa nước dâng lên gây lụt lội, nhưng bất ngờ
những cơn mưa như thác đổ vào tháng 8-1945 đã tràn ngập tất cả các cánh đồng
các tỉnh Hà Đông, Bắc Ninh, Sơn Tây, Phúc Yên, Vĩnh Yên, Hải Dương. Nạn mất mùa
trở lại. Vài nơi thiếu gạo, dân chúng đã phải ăn cả lúa giống để dành làm vụ
mùa sau.
+ Cộng Sản quấy rối:
Theo những gì chúng ta biết, khi nạn đói xảy ra năm 1945, đảng Cộng Sản Đông
Dương và Việt Minh lên án Pháp và Nhật là tác nhân gây ra nạn đói, và chống việc
trưng mua lúa gạo.
Việt Minh (VM) đả kích chính phủ Trần Trọng Kim, kích động dân chúng lăng nhục
những viên chức chính quyền lo việc cứu tế. Khi biết được Đức rồi Nhật sắp đầu
hàng Đồng minh, một mặt VM xúi giục dân chúng đánh phá các kho lúa. Một mặt
khác, VM đứng ra tổ chức cướp các kho gạo.
Việt Minh còn âm thầm chận bắt những chuyến xe hay những chuyến ghe chở gạo từ
miền Nam ra, rồi VM đem tiếp tế cho những mật khu của họ. Điều này giải thích
vì sao trong nạn đói Lãnh đạo và quân đội của VM được mở rộng dù phải sống xa
lánh dư luận chính thống của chính quyền đương thời
Việt Minh hợp tác và cung cấp tin tức cho phe Đồng minh, chính là cho Hoa Kỳ,
dùng máy bay bắn phá các trục giao thông, khiến việc tiếp tế thực phẩm rất khó
khăn. Ngày 23-7-1945, bác sĩ Vũ Ngọc Anh, bộ trưởng bộ Y tế, trên đường đi công
tác, từ Thái Bình trở về Hà Nội, đến gần Bần Yên Nhân thì bị máy bay Đồng minh
bắn chết. Sự đi lại khó khăn đến nỗi chính phủ Trần Trọng Kim phải dùng xe đạp
để chuyển công văn.
Từ đó, nạn đói trầm trọng trở lại. Nạn đói càng trầm trọng thì VM càng dễ tuyên
truyền, vừa phản đối chính quyền, vừa chiêu dụ dân chúng bằng cách dùng gạo cướp
được để cứu đói những ai chịu theo VM. Nhạc sĩ Văn Cao (1923-1995) đã tự nhận
trong hồi bút "Tại sao tôi viết Tiến Quân Ca - ngày 7-7-1946, rằng ông
theo VM vì bản thân và gia đình quá đói. Sau được đăng trong cuốn "Thiên
Thai" tuyển tập nhạc Văn Cao, từ ngà đó ông liên tục đấu tranh cho
"Nhân văn giai phẩm" cùng các nhạc sĩ lỗi lạc như Phạm Duy, Ngô Thụy
Miên...nhằm phản đói chính quyền CS ép buộc các nhạc sĩ viết nhạc tuyên truyền
chiến tranh, đi ngược lại cốt cách của người làm nghệ thuật. Năm 1954, hai người
bạn đồng môn của Văn Cao chạy thoát vào Nam, người bạn già này bèn ngậm ngùi với
những tác phẩm thơ mộng như "Mùa xuân đầu tiên" của ông bị cấm lưu
hành cho đến năm 1992.
+ Năm lần đàm phán với Việt Minh. Lần
thứ hai là quan trọng hơn cả vì nó có sự góp mặt của Tổng thống Kim cùng các nội
các giáp mặt với một thành viên phe VM. Xin trích nguyên văn hồi ký "Một
cơn gió bụi" của ông :
“Đảng Việt Minh lúc ấy rất hoạt động, đánh huyện này, phá phủ kia, lính Bảo An ở
các nơi, phần nhiều bị Việt Minh tuyên truyền, tuy chưa theo hẳn, nhưng không
chống cự nữa. Nhân dân bấy giờ rất hoang mang, một đường có chính phủ quốc gia,
nhưng vì thời gian eo hẹp, chưa kịp sắp đặt gì cả, công việc thấy có nhiều sự
khốn khó mà thường nghe sự tuyên truyền của Việt Minh nói họ đã có các nước đồng
minh giúp đỡ cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập. Dân ta từ khi bị người Pháp
sang cai trị, cứ khao khát độc lập, nay nghe Việt Minh nói như thế, ai nghe nói
đảng Việt Minh lên cầm quyền, dân không phải đóng thuế nữa, được hoàn toàn tự
do và có nhiều hạnh phúc, thành ra ai cũng tin theo. Ngay những đạo thanh niên
tiền tuyến do Bộ Thanh Niên lập ra, cũng có ý ngả về Việt Minh.
“Tôi thấy tình thế ấy, tôi bảo ông Phan Kế Toại đi tìm một vài người Việt Minh
đến nói chuyện, vì lúc ấy tôi còn tưởng đảng Việt Minh dù theo chủ nghĩa cộng sản,
nhưng chắc cũng nghĩ đến tương lai nước nhà. Hôm sau ông Toại đưa một thiếu
niên Việt Minh đến, tôi nói ‘chúng tôi ra làm việc chỉ vì nước mà thôi, chứ
không có ý cầu danh lợi gì cả, tôi chắc đảng của các ông cũng vì nước mà hành động.
Nếu vậy chúng ta tuy đi con đường khác nhau, nhưng cũng cùng một mục đích như
nhau, các ông thử xem ta có thể hợp tác với nhau, kẻ ở trong người ở ngoài để cứu
nước được không?
“Người ấy nói: – Sự hành động của chúng tôi đã có chủ nghĩa riêng và có chương
trì nhất định để đem nước đến chỗ hoàn toàn độc lập. Chúng tôi có thể làm lấy
được.
– Sự mưu cầu cho nước được độc lập cũng là mục đích của chúng tôi nhưng vì đi
đường thẳng có nhiều sự khó khăn, nên chúng tôi phải uyển khúc mà đi từ từ có lẽ
chắc chắn hơn.
– Chúng tôi chỉ có một con đường thẳng để đi đến hoàn toàn độc lập chứ không có
hai.
– Theo như ý của các ông như thế, tôi sợ rất hại cho dân, mà chưa chắc đã thành
công được.
– Chúng tôi chắc thế nào cũng thành công. Nếu có hại cũng không cần, có hại rồi
mới có lợi. Dù trong nước mười phần chết chín, chúng tôi sẽ lập một xã hội mới
với một thành phần còn lại còn hơn với chín phần kia.
“Rồi người ấy đọc một bài hình như đã học thuộc lòng để kể những công việc của
đảng Việt Minh. Tôi thấy thái độ người ấy như thế tôi biết không thể lấy nghĩa
lý nói chuyện được.
“Tôi nói: – Nếu các ông chắc lấy được quyền độc lập cho nước nhà, các ông vào
chính phủ làm việc, cần gì phải đánh phá cho khổ dân?
– Chúng tôi sẽ cướp quyền để tỏ cho cả nước đồng minh biết chúng tôi mạnh, chứ
không chịu cho ai nhường.
– Các ông chắc là các nước đồng minh tin ở sức mạnh của các ông không?
– Chắc lắm. Chắc trăm phần trăm.
– Tương lai còn dài, các ông nhận lấy trách nhiệm đối với quốc dân và lịch sử”.
Vâng, lịch sử dân tộc luôn công bằng nhưng liệu thứ lịch sử được kẻ chiến thắng
làm méo mó có còn công bằng được hay không? Nó sẽ nảy sinh những chiều tranh luận!
Lịch sử không chỉ kể về quá khứ, mà nó còn có giá trị đến hiện tại và tương
lai, chính hành động của nhà cầm quyền đương thời sẽ chứng minh cho luận điệu
nào là đúng và phù hợp lòng dân nhất. Lịch sử không chỉ kể về quá khứ, mà nó
còn có giá trị đến hiện tại và tương lai.
3. Nói về bản Tuyên ngôn độc lập của Hồ
Chí Minh:
Bản tuyên ngôn này thực chất là hoàn toàn không cần thiết, vì từ ngày 11/3 trước
đó, Hoàng Đế Bảo Đại, với tư cách nguyên thủ quốc gia và là người kế vị vua Tự
Đức đã tuyên bố hủy bỏ hết các hòa ước bảo hộ mà Tự Đức đã kết với người Pháp rồi.
Thế nên việc làm của Hồ Chí Minh chỉ là thừa thãi, vô nghĩa.
+ Ngày 13-7-1945, đích thân Trần Trọng Kim ra Hà Nội thương thuyết. Toàn quyền
Nhật Bản Yuichi Tsuchihashi chịu trả ba thành phố Hà Nội, Hải Phòng và Đà Nẵng,
vốn là nhượng địa của Việt Nam cho Pháp từ năm 1888.
+ Nam Kỳ (cũ) nay là Nam Bộ vốn là thuộc địa của Pháp, theo quy chế riêng. Vì vậy,
lúc đầu người Nhật trì hoãn việc trả Nam Bộ, nhưng sau người Nhật chịu giao Nam
Bộ lại cho Việt Nam từ ngày 8-8-1945.
+ Nhưng vì nguyên nhân khách quan Nhật hoàng đầu hàng quân đồng minh ngày 14-8
sau khi liên tục nhận hai quả bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki, trong
thế hỗn mang, Nhật chưa kịp trao trả Nam Bộ cho Quốc gia Việt Nam, thì đã bị Việt
Minh đảo chính.
+ Ngày 20-8-1945, Trần Trọng Kim từ bỏ ý định tiếp tục cầm quyền và tuyên bố đã
hoàn thành hai sứ mệnh lịch sử là thống nhất lãnh thổ và đặt định nền tảng hành
chánh căn bản cho đất nước. Chính phủ của ông họp phiên cuối cùng ngày
23-8-1945 rồi tự giải tán. Về phía vua Bảo Đại, hai ngày sau, 25-8-1945, nhà
vua tuyên chiếu thoái vị.
Đi sâu hơn vào chi tiết, người ta thấy Bảo Đại và những vị thượng thư của ông
đã tỏ ra rất thận trọng và cân nhắc từng câu, từng chữ để chỉ nói lên những gì
cần phải nói và nói một cách rõ ràng, còn bản tuyên ngôn tại Ba Đình ngày 2/9 của
Hồ Chí Minh thì dài lòng dòng, mang nặng tính cách xách động quần chúng. Ngay cả
những tư tưởng chủ chốt liên hệ tới độc lập, tự do cũng phải đi vay mượn của
người Mỹ hay người Pháp.
Mỹ đến thời điểm đó hầu như là một đồng minh của họ Hồ, như đã nói ở trên, ít
người biết Mỹ đã cho quân nhảy dù xuống Ba Đình hôm đó để bảo vệ và xa hơn năm
1932, OSS (tiền thân CIA) đã can thiệp để cứu Hồ từ HongKong. Điều đó giải
thích vì sao trong “Tuyên ngôn độc lập” của mình, ông ta chỉ công khai chỉ
trích duy nhất Pháp, dù có trích dẫn từ cả hai nước đồng minh.
Như đã nói phía trên, là một con người mang nặng tư tưởng
Cộng Sản, Hồ Chí Minh sẽ không dễ gì thuận theo người Mỹ thành lập một chính
quyền minh bạch. Và sự thật là sau “Tuần lễ vàng” và xa hơn là hai cuộc “Cải
cách ruộng đất” đẫm máu, bộ mặt của một tổ chức cộng sản càng rõ ràng hơn, khiến
nước Mỹ từ ủng hộ Hồ Chí Minh sang cổ vũ hết mình cho cụ Ngô Đình Diệm. Với
cùng một hệ tư tưởng, người tự xưng là “cha già dân tộc” này đã giao cho quân đội
Mao Trạch Đông quyền kiểm sát thay thế nhằm tránh phải đối mặt với sự quay lại
của người Pháp vốn đã được thoả thuận trong các hiệp định mà các bên có liên
quan đã ký kết. Đó là một quyết định không những sai lầm mà đem lại tác dụng
ngược với những mong đợi của ông ta. Bằng những viện trợ nhỏ giọt từ một Trung
Quốc tiêu điều sau Thế Chiến II, nạn đói không những không được đẩy lùi, nó còn
gia tăng hơn về mức độ, cướp đi mạng sống của gần 2 triệu con người.
Sau khi người Pháp thất bại trong việc bảo vệ thuộc địa của mình vào năm 1954
và phải ký kết hiệp định Geneva, hơn 1 triệu người tị nạn gốc Bắc (đã tìm đường
tháo chạy trong lúc Nam - Bắc tạm thời tự do mở cửa biên giới, và rất có thể số
người tị nạn sẽ còn nhiều hơn bội phần nếu hệ thống thông tin thời kỳ đó không
bị hạn chế hoặc là thời gian cho cuộc tị nạn dài hơn. Không có lửa thì sẽ không
có khói, và qua bài viết này, chúng tôi hy vọng những bạn đã nhận ra đâu phe
chính nghĩa sẽ hiểu thêm về cái thứ được gọi là “độc lập” mà quân Việt Minh đã
giành lấy từ việc cướp chính quyền hợp pháp của Trần Trọng Kim vào ngày này 72
năm trước. Thứ “độc lập” đó không có ý nghĩa gì ngoại trừ việc đăt nước ta dưới
ách cai trị lớn hơn của quân Cộng sản Liên Xô và Trung Quốc, hơn cả là đặt hàng
triệu người con miền Bắc dưới tư tưởng "bạo động và tuyên truyền cướp
chính quyền" của Việt Minh hay chính là Đảng Cộng sản về sau này. Đây
chính là một trong những nguyên nhân lớn nhất dẫn tới cuộc nội chiến 21 năm sau
đó, và rồi là hàng chục năm tăm tối chưa có hồi kết khi mà nền dân chủ cuối
cùng trên đất Việt bị xoá sổ...