“Bóc phốt” sai phạm triệu tỷ đồng của Tập đoàn Điện lực Việt Nam
Liên quan đến thương vụ đầu tư vào EVN Telecom, Công ty mẹ EVN đã gây mất vốn nhà nước số tiền 2.425.830.774.995 đồng. (Ảnh TL)
Theo kết luận của
Thanh tra Chính phủ, Công ty mẹ EVN đã đầu tư vốn ra ngoài doanh nghiệp
số tiền 121.790.229.190.506 đồng trong khi vốn điều lệ của Công ty mẹ
EVN chỉ có 76.742.000.000.000 đồng, vượt vốn điều lệ số tiền
45.048.229.190.506 đồng là chưa thực hiện đúng quy định Thông tư số
117/2010/TT-BTC ngày 24/5/2010 và Quyết định số 1876/QĐ-BTC ngày
05/8/2011 của Bộ Tài chính; đầu tư vào lĩnh vực tài chính, ngân hàng,
bảo hiểm, chứng khoán số tiền 1.997.356.371.000 đồng vượt tỷ lệ quy định
là chưa đúng với quy định tại Quyết định số 854/QĐ-TTg ngày 10/7/2012
của Thủ tướng Chính phủ và Thông tư số 117/2010/TT-BTC ngày 05/8/2010
của Bộ Tài chính; việc đầu tư vốn ra ngoài doanh nghiệp chưa mang lại
hiệu quả kinh tế.
“Trong năm 2011, hệ số
giữa nợ phải trả và vốn điều lệ của Công ty mẹ EVN là 2,741 lần, hệ số
giữa nợ phải trả và vốn chủ sở hữu của Công ty mẹ EVN là 3,246 lần là
tương đối cao, Công ty mẹ EVN chưa cân đối được nguồn vốn để trả các
khoản nợ quá hạn thanh toán, các chỉ số trên tương đối cao cũng gây khó
khăn cho Công ty mẹ EVN trong việc tiếp cận các nguồn vốn vay trong các
năm tiếp theo” - Thanh tra Chính phủ chỉ rõ.
Bên cạnh đó, Công ty
mẹ EVN và các Nhà máy thủy diện hạch toán phụ thuộc EVN chưa nộp về Quỹ
bảo vệ và Phát triển rừng Trung ương và địa phương tiện phí dịch vụ môi
trường rừng số tiền 533.183.784.440 đồng là chưa thực hiện đúng Nghị
định số 99/2010/NĐ-CP ngày 24/9/2010 của Chính phủ và ý kiến chỉ đạo của
Thủ tướng Chính phủ tại Văn bản số 1221/VPCP-KTN ngày 01/3/2012 và số
4894/VPCP-KTN ngày 20/7/2011 của Văn phòng Chính phủ.
Ngoài ra, Công ty mẹ
EVN hướng dẫn hạch toán chuyển nguồn vốn không đúng tại 11 dự án đã hoàn
thành và đang hoạt động, làm tăng chi phí cho sản xuất điện trong năm
2011 tại 11 dự án trên số tiền 223.909.749.578 đồng.
Thanh tra Chính phủ
khẳng định, việc Công ty mẹ EVN chưa xây dựng được quy định về việc trả
lương, phụ cấp, tiền thưởng và chế độ khác cho người đại diện theo quy
định tại Điều 47, Nghị định 199/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 và Điều 46,
Nghị định 09/2009/NĐ-CP ngày 05/02/2009 của Chính phủ; phê duyệt định
biên lao động chưa chính xác, còn có sự chênh lệch lớn giữa lao động kế
hoạch và lao động thực tế sử dụng nhưng chậm sửa đổi là chưa đúng với
quy định tại Mục 1, Phần IV, Thông tư số 06/2005/TT-BLĐTBXH ngày
05/01/2005 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội; phê duyệt kế hoạch
tiền lương vào cuối năm thực hiện là chưa đúng quy định tại Nghị định
206, 207/NĐ-CP ngày 14/12/2004, Nghị định số 141/2007/NĐ-CP ngày
05/9/2007 của Chính phủ; phân chia lương giữa các khâu (phát điện,
truyền tải và khối phân phối) còn có chênh lệch lớn tạo sư không công
bằng giữa các khâu trong kinh doanh điện.
Việc Công ty mẹ EVN sử
dụng nguồn kinh phí đào tạo số tiền 1.648.000 USD và 467.157.588 đồng
để đào tạo thạc sỹ quản trị kinh doanh cho CBCNV nhưng Bằng thạc sỹ quản
trị kinh doanh do Đại học Griggs cấp chưa được Bộ Giáo dục và Đào tạo
Việt Nam công nhận; mua 02 xe ôtô Toyota LandCruise vượt định mức quy
định tại Thông tư số 06/2011/TT-BTC ngày 14/01/2011 của Bộ Tài chính số
tiền 3.014.120.000 đồng.
Từ năm 2005 đến tháng
7/2012, EVN triển khai 20/42 dự án chậm tiến độ dẫn đến việc thiếu hụt
sản lượng điện và tăng chi phí đầu tư cho dự án; Dự án Nhà máy Nhiệt
điện Uông Bí mở rộng, ngoài số tiền 167.183.625.666 đồng (khối lượng
công việc hoàn thành phần đốt lò phục vụ phát điện theo yêu cầu của EVN
ngoài họp đồng Tổng thầu EPC), còn phát sinh khoản chi dầu đốt khởi động
lại lò do xảy ra sự cố phải ngừng hoạt động và EVN đã chi tổng số tiền
163.217.579.935 đồng, không đúng với Tổng thầu EPC đã ký giữa EVN đã ký
giữa EVN và LILAMA.
Thanh tra Chính phủ
cho rằng, Công ty mẹ EVN xây dựng các chỉ tiêu để xác định giá bán điện
nội bộ cho EVN SPC thiếu một số khoản doanh thu và chi phí có liên quan
trực tiếp đến hoạt động phân phối điện; chưa hướng dẫn việc xác định giá
thành cho hoạt động treo cáp thông tin để thống nhất việc quản lý giữa
các Tổng Công ty Điện lực; EVN cấp cho EVN NPC số tiền 3.157.000.000
đồng từ nguồn vốn khấu hao cơ bản để xây dựng Trường dân tộc nội trú cho
huyện Tân Uyên, tỉnh Lai Châu là không đúng với mục đích sử dụng nguồn
vốn khấu hao cơ bản.
Liên quan đến thương
vụ đầu tư vào EVN Telecom, Công ty mẹ EVN đã gây mất vốn nhà nước số
tiền 2.425.830.774.995 đồng; việc EVN và Viettel ký Hợp đồng chuyển giao
EVN Telecom, hạ tầng viễn thông của EVN sang Viettel trong đó quy định
EVN không thu phí trong vòng 30 năm đối với toàn bộ hệ thống cáp viễn
thông chuyển giao sang Viettel và các tuyến cáp của Viettel đã, đang và
sẽ triển khai trong toàn bộ hệ thống cột điện của EVN trong hiện tại và
tương lai dẫn đên việc Viettel giảm giá thành dịch vụ viễn thông, tăng
lợi nhuận hàng năm là 354.272.376.050 đồng và EVN sẽ giảm một khoản
doanh thu tương ứng hàng năm là chưa hợp lý.
Công ty mẹ EVN và
Viettel chưa xử lý khoản công nợ liên quan đến việc bàn giao tài sản
viễn thông gồm: 1.592.776.425.586 đồng là khoản tiền EVN Telecom phải
trả các Tổng công ty Điện lực; 1.529.830.802.136 đồng là khoản tiền
Viettel nhận nợ, thanh toán cho các đối tác của EVN Telecom, 5 Tổng công
ty Điện lực; 5.568.803.143.346 đồng là khoản tiền phải thanh toán cho
các ngân hàng, tổ chức tín dụng của EVN Telecom, 5 Tổng công ty Điện lực
và NPT; 2.703.787.273.654 đồng là khoản tiền phải trả cho EVN.
Đối với việc bàn giao
bàn giao tài sản lưới điện 110 KV, Công ty mẹ EVN chưa hướng dẫn NPT và
các Tổng công ty Điện lực thanh toán dứt điểm việc bàn giao tài sản lưới
điện 110 KV với số tiền là 1.091.000.000.000 đồng; chưa hướng dẫn EVN
NPC thanh toán dứt điểm tổng số tiền 829.764.547.590 đồng với EVN Hà Nội
và Công ty TNHH MTV Hải Phòng việc bàn giao tài sản thuộc Dự án ADB
(Tổng công ty Điện lực Hà Nội số tiền 534.284.463.774 đồng, Công ty TNHH
MTV Điện lực Hải phòng số tiền 295.480.083.816 đồng).
Giám đốc Nhà máy Thủy
điện Sơn La, Nhà máy Thủy điện Đồng Nai 3, Nhà máy thủy điện Ankhe Knack
không xác định thời điểm trích khấu hao tài sản là thời điểm tài sản
sẵn sàng sử dụng (các bên ký biên bản nghiệm thu bàn giao tài sản) là
chưa đúng với quy định tại Điều 2, Thông tư số 203/2009/TT- BTC ngày
20/10/2009 của Bộ Tài chính “Nguyên giá tài sản cô định hữu hình là
toàn bộ các chi phí mà doanh nghiệp phải bỏ ra để có tài sản cố định hữu
hình tính đến thời điểm đưa tài sản đó vào trạng thái sẵn sàng sử
dụng”; việc trích khấu hao các công trình đường giao thông Nhà máy
Thủy điện Đồng Nai 3, Nhà máy thủy điện Ankhe Knack không đúng thời gian
đăng ký với cơ quan thuế là chưa đúng với quy định tại Khoản 4, Điều
13, Thông tư số 203/2009/TT-BTC ngày 20/10/2009 “Phương pháp khấu
hao áp dụng cho từng TSCĐ mà doanh nghiệp đã lựa chọn và đăng ký phải
được thực hiện hợp nhất quán trong quá trình sử dụng TSCĐ”.
Tạp chí điện tử Mặt trận (tapchimattran.vn) sẽ tiếp tục thông tin.