Thứ Hai, 3 tháng 5, 2021

Cơ hội hòa giải hòa hợp dân tộc đã bị gạt bỏ từ giữa tháng 5-1975

 

Cơ hội hòa giải hòa hợp dân tộc đã bị gạt bỏ từ giữa tháng 5-1975

Phan Trí Đỉnh

Khi Tổng Bí thư Lê Duẩn đáp máy bay vào Sài Gòn, ông đi nhiều nơi, nhận thấy việc tiếp quản Sài Gòn và các thành phố gần như nguyên vẹn, đời sống ổn định, khu công nghiệp Biên Hòa hiện đại, nền kinh tế thị trường nhộn nhịp.

Đáng ra, nếu Tổng Bí thư quyết định Sài Gòn vẫn giữ nguyên mô hình, các quan hệ trong nước và quốc tế đã tạo lập, các thành phần kinh tế… để từ đó thúc đẩy nền kinh tế cả nước thì tình hình đã khác.

Nhưng tại Hội nghị trù bị lần thứ 24 tháng 8-1975, đa số lãnh đạo cao cấp của Đảng Cộng sản đề nghị áp dụng mô hình XHCN miền Bắc lên cả nước. Kết quả là một nghị quyết chính thức ban hành chủ trương cải tạo và xóa bỏ nền kinh tế đa thành phần ở miền Nam. Để thực hiện chủ trương, việc trước tiên quan trọng nhất là tập trung giam giữ mà cộng sản gọi là cải tạo con người trong bộ máy chính quyền vừa sụp đổ.

Từ đây, một hướng đi đã đưa nhân dân miền Nam và cả dân tộc vào chặng đường đói nghèo và khủng hoảng trầm trọng.

Cải tạo có trọng điểm

Đối với những sĩ quan, binh lính quân đội và cảnh sát trong chế độ Việt Nam Cộng hòa, Ủy ban quân quản Sài Gòn và các tỉnh thành kêu gọi tất cả ra trình diện, khai lý lịch để phân loại.

Chủ trương lúc này là: “Việc tổ chức cho ngụy quân, ngụy quyền và các đối tượng phản động ra trình diện học tập cải tạo thể hiện chính sách nhân đạo của Đảng và nhà nước, có tác dụng phân hóa hàng ngũ bọn phản động, cô lập bọn đầu sỏ ngoan cố, đập tan luận điệu tuyên truyền chiến tranh tâm lý của địch, tranh thủ được sự đồng tình và ủng hộ của nhân dân”.

Đúng là ngay sau khi chiếm miền Nam, không có trả thù gây đổ máu, nhưng kêu gọi trình diện cũng không phải là chính sách khoan hồng, bởi việc trả thù diễn ra theo một cách khác.

Kêu gọi trình diện là “cái bẫy” để Ủy ban quân quản các cấp nắm được đối tượng. Ở chức vụ thấp và những cộng tác bình thường thì tập trung học tập tại chỗ thời gian ngắn. Nặng hơn, bị tập trung cải tạo dài hạn trong điều kiện khắt khe. Qua trình diện, hơn 300.000 đối tượng cần tập trung cải tạo lâu dài được xác định (cũng có con số khác ước tính cao hơn, Đảng Cộng sản đưa ra con số công khai là 200.000 người).

Những nhà tù sẵn có được mở rộng quy mô và tăng thêm tính kiên cố, cùng với việc thành lập hàng loạt trại giam tại nhiều vùng rừng núi xa xôi ở các tỉnh phía Bắc, hoàn toàn cách ly với bên ngoài trong nhiều năm liền. Tù nhân bị đối xử mất hết quyền công dân, chưa nói đến nhân quyền hay quyền tối thiểu của tù binh chiến tranh. Họ phải lao động ở các công trường, trong các trại cải tạo với sinh hoạt tối thiểu, hạn chế một cách khắc nghiệt, ăn uống thiếu thốn, chăm sóc y tế hầu như không có. Về tư tưởng, họ phải học tập lý luận Marx-Lenin cũng như đường lối chủ trương của Đảng Cộng sản.

Cách đối xử của chính quyền mới bề ngoài là hoàn toàn nhân đạo, thực ra che giấu những tàn nhẫn, mất nhân tính và trái với Công ước Genève quy định về đối xử không phân biệt với tù binh chiến tranh ở bất cứ phía nào. Nhiều người bị cải tạo trên 10 năm và cũng không ít người bị cải tạo trên 20 năm. Những trường hợp chết, kể cả bị tra tấn trong thời gian giam giữ cải tạo đều bị liệt vào mất tích, gia đình không được hồi báo rõ ràng, càng không thể tìm thấy hài cốt. Những người sống sót hết hạn được về địa phương, trong tình trạng quản chế tại gia và tiếp tục bị theo dõi. Hàng trăm ngàn người bị tước đoạt quyền được sống cả cuộc đời hay phần lớn cuộc đời.

Theo sau họ, nạn bị phân biệt lý lịch dẫn đến gia đình, nhất là thế hệ con cái bị đối xử một cách bất bình đẳng về mặt xã hội. Sau khi bình thường hóa quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ, hầu hết họ đã làm hồ sơ xin đến định cư tại Hoa Kỳ theo các chương trình nhân đạo ODP và chương trình bổ sung HR. Về cuộc cải tạo này, một luật sư đã nhận định: “Không có thời đại nào có cuộc trả thù khủng khiếp như thời kỳ cộng sản thống nhất đất nước”.

Trung Tướng Đặng Quốc Bảo trong quân đội cộng sản ngay sau năm 1975 cũng cho rằng hành xử như thế chỉ: “Mất một cơ hội hòa hợp bằng vàng! Mất đứt một khối nhân lực, chất xám!”.

P.T.Đ.

Nguồn: danquyenvn.blogspot.com

Chủ Nhật, 2 tháng 5, 2021

Cơ hội hòa giải hòa hợp dân tộc đã bị gạt bỏ từ giữa tháng 5-1975

Cơ hội hòa giải hòa hợp dân tộc đã bị gạt bỏ từ giữa tháng 5-1975

PHAN TRÍ ĐỈNH

Khi Tổng Bí thư Lê Duẩn đáp máy bay vào Sài Gòn, ông đi nhiều nơi, nhận thấy việc tiếp quản Sài Gòn và các thành phố gần như nguyên vẹn, đời sống ổn định, khu công nghiệp Biên Hòa hiện đại, nền kinh tế thị trường nhộn nhịp. 


Đáng ra, nếu Tổng Bí thư quyết định Sài Gòn vẫn giữ nguyên mô hình, các quan hệ trong nước và quốc tế đã tạo lập, các thành phần kinh tế… để từ đó thúc đẩy nền kinh tế cả nước thì tình hình đã khác. Nhưng tại Hội nghị trù bị lần thứ 24 tháng 8-1975, đa số lãnh đạo cao cấp của Đảng Cộng sản đề nghị áp dụng mô hình XHCN miền Bắc lên cả nước. Kết quả là một nghị quyết chính thức ban hành chủ trương cải tạo và xóa bỏ nền kinh tế đa thành phần ở miền Nam. Để thực hiện chủ trương, việc trước tiên quan trọng nhất là tập trung giam giữ mà cộng sản gọi là cải tạo con người trong bộ máy chính quyền vừa sụp đổ.

Từ đây, một hướng đi đã đưa nhân dân miền Nam và cả dân tộc vào chặng đường đói nghèo và khủng hoảng trầm trọng.

Cải tạo có trọng điểm

Đối với những sĩ quan, binh lính quân đội và cảnh sát trong chế độ Việt Nam Cộng hòa, Ủy ban quân quản Sài Gòn và các tỉnh thành kêu gọi tất cả ra trình diện, khai lý lịch để phân loại. Chủ trương lúc này là: “Việc tổ chức cho ngụy quân, ngụy quyền và các đối tượng phản động ra trình diện học tập cải tạo thể hiện chính sách nhân đạo của Đảng và nhà nước, có tác dụng phân hóa hàng ngũ bọn phản động, cô lập bọn đầu sỏ ngoan cố, đập tan luận điệu tuyên truyền chiến tranh tâm lý của địch, tranh thủ được sự đồng tình và ủng hộ của nhân dân”. Đúng là ngay sau khi chiếm miền Nam, không có trả thù gây đổ máu, nhưng kêu gọi trình diện cũng không phải là chính sách khoan hồng, bởi việc trả thù diễn ra theo một cách khác.

Kêu gọi trình diện là “cái bẫy” để Ủy ban quân quản các cấp nắm được đối tượng. Ở chức vụ thấp và những cộng tác bình thường thì tập trung học tập tại chỗ thời gian ngắn. Nặng hơn, bị tập trung cải tạo dài hạn trong điều kiện khắt khe. Qua trình diện, hơn 300.000 đối tượng cần tập trung cải tạo lâu dài được xác định (cũng có con số khác ước tính cao hơn, Đảng Cộng sản đưa ra con số công khai là 200.000 người).

Những nhà tù sẵn có được mở rộng quy mô và tăng thêm tính kiến cố, cùng với việc thành lập hàng loạt trại giam tại nhiều vùng rừng núi xa xôi ở các tỉnh phía Bắc, hoàn toàn cách ly với bên ngoài trong nhiều năm liền. Tù nhân bị đối xử mất hết quyền công dân, chưa nói đến nhân quyền hay quyền tối thiểu của tù binh chiến tranh. Họ phải lao động ở các công trường, trong các trại cải tạo với sinh hoạt tối thiểu, hạn chế một cách khắc nghiệt, ăn uống thiếu thốn, chăm sóc y tế hầu như không có. Về tư tưởng, họ phải học tập lý luận Marx-Lenin cũng như đường lối chủ trương của Đảng Cộng sản.

Cách đối xử của chính quyền mới bề ngoài là hoàn toàn nhân đạo, thực ra che giấu những tàn nhẫn, mất nhân tính và trái với Công ước Genève quy định về đối xử không phân biệt với tù binh chiến tranh ở bất cứ phía nào. Nhiều người bị cải tạo trên 10 năm và cũng không ít người bị cải tạo trên 20 năm. Những trường hợp chết, kể cả bị tra tấn trong thời gian giam giữ cải tạo đều bị liệt vào mất tích, gia đình không được hồi báo rõ ràng, càng không thể tìm thấy hài cốt. Những người sống sót hết hạn được về địa phương, trong tình trạng quản chế tại gia và tiếp tục bị theo dõi. Hàng trăm ngàn người bị tước đoạt quyền được sống cả cuộc đời hay phần lớn cuộc đời.

Theo sau họ, nạn bị phân biệt lý lịch dẫn đến gia đình, nhất là thế hệ con cái bị đối xử một cách bất bình đẳng về mặt xã hội. Sau khi bình thường hóa quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ, hầu hết họ đã làm hồ sơ xin đến định cư tại Hoa Kỳ theo các chương trình nhân đạo ODP và chương trình bổ sung HR. Về cuộc cải tạo này, một luật sư đã nhận định: “Không có thời đại nào có cuộc trả thù khủng khiếp như thời kỳ cộng sản thống nhất đất nước”.

Trung Tướng Đặng Quốc Bảo trong quân đội cộng sản ngay sau năm 1975 cũng cho rằng hành xử như thế chỉ: “Mất một cơ hội hòa hợp bằng vàng! Mất đứt một khối nhân lực, chất xám!”

 



https://danquyenvn.blogspot.com/2021/05/co-hoi-hoa-giai-hoa-hop-dan-toc-bi-gat.html

Thứ Sáu, 30 tháng 4, 2021

SỰ THẬT TRƯA NGÀY 30/4/1975

SỰ THẬT TRƯA NGÀY 30/4/1975

Khac Binh Nguyen

30/04/2021

Những người lính trên chiếc xe tăng 390 ngày ấy giờ đã mất đi 1 người (BBT: vưt biên) cũng tha thiết mong muốn ông Phạm Xuân Thệ nên xin lỗi lịch sử, xin lỗi Đảng, xin lỗi nhân dân, xin lỗi những người đồng chí đồng đội của mình và xin lỗi ông Bùi Văn Tùng vì đã ăn gian và nhận vơ công trạng, làm thay đổi, sai lệch lịch sử.

Nhà báo chiến trường, nghệ sĩ ưu tú Phạm Việt Tùng, nói về con đường 46 năm đi tới bộ phim “Sự thật trưa 30/4/75”.

Bộ phim Tài liệu điều tra “Sự thật trưa 30/4/75” do Nhà báo, nghệ sĩ ưu tú Phạm Việt Tùng đạo diễn, vừa được trình chiếu vào dịp 30/4/2021 đã gây xôn xao dư luận.

PV: - Thưa đạo diễn Phạm Việt Tùng, ông nói ông đã phát hiện trung tướng Phạm Xuân Thệ nói dối 5 lần?


Nhà báo Phạm Việt Tùng: Đúng vậy.

Ông Phạm Xuân Thệ đã nhận mình là người soạn thảo tuyên bố đầu hàng cho Tổng thống Sài Gòn Dương Văn Minh đọc trên Đài Phát thanh Sài Gòn vào trưa 30/4/1975. Sự thật là người soạn thảo bản tuyên bố đầu hàng và kêu gọi tướng lĩnh và binh lính Việt Nam Cộng hòa buông vũ khí ngừng chiến là ông Bùi Văn Tùng, lúc đó là trung tá, chính ủy Lữ đoàn xe tăng 203. Để che giấu sự nói dối này, trung tướng Phạm Xuân Thệ đã tiếp tục 4 lần nói dối. Và chúng tôi đã phải đi lần tìm theo lịch sử, làm nhiều bộ phim tài liệu về sự kiện này cho đến khi tôi hoàn toàn chứng minh được ông Thệ nói dối.

Từ trước năm 2000, tôi đã được nghe những người lính tăng phàn nàn về việc đại úy Phạm Xuân Thệ, một Trung đoàn phó trung đoàn bộ binh 66 phối thuộc trong cuộc tiến quân vào Sài Gòn và có mặt tại Dinh Độc Lập trưa 30/4/1975 lại cứ nhận là mình thảo bản tuyên bố đầu hàng. Trong khi thủ trưởng của họ, khi đó là trung tá Bùi Văn Tùng, chính ủy của Lữ đoàn xe tăng 203, đơn vị tiên phong của Quân giải phóng tiến vào Dinh Độc Lập, mới là người thực sự soạn thảo tuyên bố đầu hàng. Những người lính này đã được chứng minh là những người tiên phong có mặt, làm nhiệm vụ bảo vệ cho đầu não cán bộ của bên ta, những lời nói của họ khiến tôi lưu ý.

Ngày 20/11/2004, tôi đến gặp Đại tá Bùi Văn Tùng, lúc đó đã nghỉ hưu ở TP Hồ Chí Minh. Đại tá Bùi Văn Tùng có đưa tôi xem một bức thư của ông Nguyễn Tất Tài, tư Lệnh Lữ đoàn 203 gửi cho ông từ năm 1996, phàn nàn về việc trong một cuộc họp của Quân đoàn 2 nói chuyện lịch sử về ngày 30/4, trong đó ông Phạm Xuân Thệ đã nói cứ như ông ấy là người chỉ huy chiến dịch. Ông Bùi Văn Tùng đã giữ bức thư đó gần 10 năm, nhưng cũng không lên tiếng về những gì ông Thệ nói. Tôi đã giữ bức thư đó cho đến tận bây giờ. Bắt đầu từ năm 2005, tôi bắt tay vào đi tìm sự thật về việc ai là người soạn bản tuyên bố đầu hàng cho Tổng thống Sài gòn Dương Văn Minh.

Khi tôi đến gặp ông Phạm Xuân Thệ, cùng với ông Trần Gia Thái, khi đó là giám đốc Đài PT&TH Hà Nội, tôi phát hiện ông Thệ đã nói dối. Ông Thệ không công nhận ông Bùi Văn Tùng có mặt ở Dinh Độc Lập tại thời điểm đó.

Ông Thệ bảo phải đến 30 phút sau ông mới biết ông Bùi Văn Tùng. Ông Thệ nói: Sau khi áp giải Tổng thống Minh cùng nội các Sài Gòn đến Đài Phát thanh, khoảng 20-30 phút sau ông Tùng mới có mặt tại Đài. Ông Tùng hỏi tôi “Anh là ai?”. Tôi nói “Tôi là đại úy Phạm Xuân Thệ, Trung đoàn phó trung đoàn E66...”. Đó là điều thứ nhất ông Thệ nói dối. Sau này Tổng cục Chính trị đã xác nhận ông Bùi Văn Tùng có mặt ở Dinh Độc Lập. Ở một nơi nghiêm túc như buổi tiếp nhận đầu hàng và chuyển giao quyền lực ở trung tâm chính trị đầu não của một chế độ như Dinh Độc Lập, việc làm của những nhân vật cao cấp hàng đầu luôn thu hút được sự chú ý của tất cả mọi người, được canh gác nghiêm ngặt, cẩn mật và có thứ tự trên dưới. Ông Bùi Văn Tùng có thể không biết hết được những người cấp dưới của ông là ai, nhưng không thể có chuyện những cấp dưới, cấp thấp hơn ông ở xung quanh đó, lại không biết ông Tùng là ai và có cấp bậc gì, đeo quân hàm gì, đang làm chức năng nhiệm vụ gì được.

Ông Thệ nói văn bản đầu hàng Tổng thống Dương Văn Minh đọc, phát đi trên sóng phát thanh là do ông soạn ra. Nhưng những lời ông Thệ nhắc lại trong bộ phim do TTXVN phỏng vấn ông Thệ so với bản ghi âm lời ông Dương Văn Minh trưa ngày 30/4/75 không giống nhau. Tình cờ tôi được ông Nguyễn Hữu Thái cho biết ông Nguyễn Nhã, một nhà nghiên cứu lịch sử- văn hóa, đã thu âm lại bản phát thanh đó trong lúc đi tản cư nghe được vào trưa 30/4/75. Đó cũng là bản thu âm duy nhất chúng ta có được đến giờ. Ông Nguyễn Nhã đã cho tôi mượn cái băng này và cho phép tôi được sao chép lại làm nhiều bản. Lúc đó tôi chưa thực sự tin ông Thệ “ăn gian”. Đêm hôm ấy, tôi nghe đi nghe lại, tôi thấy nội dung lời tuyên bố đầu hàng của Tổng thống Dương Văn Minh không giống với lời ông Thệ đã nói lúc trước. Tôi phát hiện điều thứ 2 ông Thệ nói dối. Lúc đó, tôi kinh ngạc đến mức không ngủ được. Tôi tin tôi đã tìm ra sự thật thứ 2 bị vùi lấp.

Chúng tôi hiện vẫn còn giữ được ảnh chụp (tại bảo tàng Quân đoàn 2) bản viết tay Lời tuyên bố đầu hàng của Tổng thống Dương Văn Minh, nét chữ của ông Bùi Văn Tùng, có cả những chỗ gạch xóa. Câu chữ trong bản viết tay này rất khớp với lời tuyên bố đầu hàng của ông Dương Văn Minh đọc đã phát đi trên sóng phát thanh. Trong khi đó ông Phạm Xuân Thệ lại không đưa ra được bản viết tay nào, và lời ông Thệ tự công bố nội dung ông viết cho Tổng thống Minh cũng không khớp gì với Tuyên bố đầu hàng Tướng Minh đã đọc. Bộ Chính sử Nam Bộ kháng chiến do Thủ tướng Võ Văn Kiệt làm Trưởng ban soạn thảo, thiếu tướng Trịnh Vương Hồng-Viện trưởng viện Lịch sử quân đội đã ký, người chắp bút là ông Hoạt... cũng đã công nhận bản viết tay này là chữ của ông Bùi Văn Tùng, do ông Bùi Văn Tùng soạn thảo. Thế nhưng ông Phạm Xuân Thệ vẫn nhận công trạng này về mình. Đó là ông Thệ nói dối điều thứ 3.

Ông Thệ bảo “Chúng tôi bàn với nhau phân công ông Bùi Tùng”. Nói như thế là ông Thệ không hiểu gì mà lộ ra sơ hở mình nói dối. Vì lúc đó ông Bùi Văn Tùng là Chính ủy Lữ đoàn, người chỉ đứng sau Lữ Đoàn trưởng, người phụ trách về Chính trị cao nhất của phía bên ta ở Dinh Độc Lập lúc đó. Chỉ có ông Tùng mới đủ tư cách là người đối thoại và thực hiện những nhiệm vụ chính trị như thảo văn kiện đầu hàng, rồi tiếp nhận đầu hàng. Mà Lữ đoàn thì là cấp trên của Trung đoàn. Ông Thệ chỉ là Trung đoàn phó một trung đoàn bộ binh phối thuộc, sao đủ tư cách mà đòi phân công cho ông Tùng đi làm việc? Đó là chưa nói đến năng lực, trình độ của một Chính ủy như ông Tùng.

Kỷ luật quân đội là kỷ luật thép, cấp dưới phải tuyệt đối phục tùng cấp trên. Ông Bùi Văn Tùng là một trung tá. Khi đó, chúng ta xét duyệt phong cấp tá rất khó khăn. Phải là cấp Nhà nước ra quyết định chứ không phải quân đội tự phong hàm cho cán bộ của mình. Một đại úy lại có thể phân công một trung tá đi làm việc, chuyện lạ đời chỉ có ông Thệ nghĩ ra!

Trong một bài báo lưu chiểu quốc tế, ông Thệ nói “Chữ tôi xấu nên tôi đọc cho ông Dương Văn Minh chép”. Ông Dương Văn Minh lúc này là đại tướng, mang tư cách là Tổng thống của chính quyền Sài Gòn. Dù đã đầu hàng nhưng ông cũng không thể đi làm một việc vô lý là chép theo lời một đại úy phía đối phương. Ông Thệ cũng không đưa ra được bản viết tay mà ông cho là Dương Văn Minh đã “chép lại”. Kho tàng tư liệu lịch sử cũng không giữ được một văn kiện nào như thế cả. Đó là điều thứ tư ông Thệ nói dối.

Thực chất là ông Dương Văn Minh đã đọc đi đọc lại bản viết tay văn kiện đầu hàng do ông Bùi Văn Tùng soạn thảo đó, ông Minh còn đề nghị bỏ chữ Tổng thống, nhưng ông Tùng không đồng ý. Họ tranh luận, sau đó ông Minh đồng ý đọc theo bản ông Tùng viết.

Chúng tôi còn được cung cấp những tư liệu của một nhà báo người Đức là Boerries Gallasch, do bà Alice Kelley Gallasch, vợ ông, tìm đến thăm và tặng lại gia đình ông Tùng đúng dịp 30/4 năm 2010. Đây là mắt xích rất quan trọng trong quá trình phơi bày sự thật ra ánh sáng. Rất nhiều tư liệu và di sản của ông B.Gallasch về ngày 30/4/75 tại Việt Nam đã được bà Alice gửi tặng sau khi bà trở thành bạn của gia đình ông Bùi Văn Tùng.

Qua lời kể của bà Alice Kelley Gallasch, thì Boerries Gallasch là 1 trong 3 nhà báo (đều là người nước ngoài) hiếm hoi có mặt tại Dinh Độc Lập vào trưa ngày 30/4/75. Khi đó, ông Gallasch đã xin ông Bùi Văn Tùng cho đi nhờ xe jeep để đến Đài Phát Thanh để kịp ghi lại khoảnh khắc lịch sử tuyên bố đầu hàng của Tổng thống Sài Gòn và chuyển giao chế độ.

Với ông B.Gallasch, trung tá Bùi Văn Tùng là ân nhân của ông, là ân nhân của cả tuần báo Tấm Gương và tin tức báo chí toàn thế giới vì ông Tùng đã giúp ông B. Gallasch thu thập tin tức và cung cấp kịp thời cho bạn đọc năm châu quan tâm đến cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Quyết định tình cờ và sáng suốt của Chính ủy Bùi Văn Tùng lúc đó đã giúp thời khắc lịch sử thiêng liêng của dân tộc được đóng dấu, được lắng đọng lại qua những thước phim và ghi chép của một nhà báo người Tây Đức. Bởi khi đến Đài Phát thanh thì Đài không hoạt động vì tất cả đã đi sơ tán. Lời thu âm của Tổng thống Việt Nam Cộng Hòa khi đó đã được thu lại bằng máy catset của nhà báo Tây Đức này rồi cả ông Minh và ông Tùng đều cẩn thận nghe đi nghe lại 3 lần, sau đó mới được phát sóng trên toàn bộ lãnh thổ miền Nam, yêu cầu toàn bộ tướng lĩnh và binh lính miền Nam ngừng chiến. Chiếc catset này cũng được bà Gallasch tặng lại cho gia đình ông Bùi Văn Tùng.

Trong số tư liệu của ông B.Gallasch còn có bức ảnh ông chụp chung với Chính ủy Bùi Văn Tùng rồi các bức ảnh có mặt ông Tùng cùng với ông Dương Văn Minh tại Dinh Độc lập cũng như tại Đài khi ông Minh đọc lời kêu gọi đầu hàng. Những sự thật ấy không ai có thể chối cãi được.

Bà Alice Kelley Gallasch đã trở thành người bạn thân thiết của gia đình Đại tá Chính ủy Bùi Văn Tùng

Sự thật là ông Phạm Xuân Thệ đã nhận vơ công trạng và ăn gian lịch sử khi tự nhận mình là người soạn thảo văn kiện đầu hàng cho tổng thống Dương Văn Minh. Để bao che cho lời nói dối ấy, ông Thệ đã phải bao biện bằng rất nhiều lời nói dối khác mà càng nói càng hở. Ông Thệ là người sống và làm việc lâu năm trong quân ngũ, không hiểu sao những tri thức tối thiểu như đại úy không thể sai phái trung tá, trung đoàn phó thấp cấp hơn Chính ủy lữ đoàn, binh chủng bộ binh phối thuộc binh chủng tăng thiết giáp (trong một trận tiến công, xe tăng là đội tiên phong, rồi đến bộ binh và các binh chủng khác. Không thể có chuyện binh chủng xe tăng phối thuộc bộ binh)... Những tri thức này mà vị trung tướng quân đội, anh hùng lực lượng vũ trang lại có thể nhầm lẫn cũng là điều lạ kì. Có thể hiểu vì dễ “nhầm lẫn” tri thức tối thiểu đó nên ông Phạm Xuân Thệ mới dễ dàng “nhầm lẫn” sự thật lịch sử, mới để xảy ra câu chuyện thật giả lẫn lộn?

Khi đã chứng minh được ông Thệ nói dối, khi đã tập hợp được tư liệu khá đầy đủ, chúng tôi bắt tay vào làm phim. Một bộ phim chưa thể đột phá vào lớp lớp những thứ na ná sự thật đã bủa vây nhận thức con người trong một thời gian dài. Vậy nên tôi làm nhiều phim. Tôi hợp tác với Đài HTV TPHCM làm phim “Trưa 30/4/1975”. Bộ phim gây ồn ào cả nước.

Trong cuộc họp ngày 12/6/2007, bên nghiên cứu Lịch sử Quân đội nói họ sẽ ghi nhận và trở về báo cáo cấp trên. Nhưng sau đó không có gì thay đổi.

Tôi lại làm bộ phim “Chuyện kể về anh bộ đội cụ Hồ”... Và sau khi tư liệu tập hợp đủ đầy, sau mấy chục năm, suy nghĩ thật chín mùi, tôi cùng các đồng nghiệp quyết định làm bộ phim “Sự thật trưa 30/4/75” này. Bộ phim lần này được sự giúp đỡ của rất nhiều bạn bè, đồng nghiệp của tôi.

PV: Vậy thì mục tiêu theo đuổi đến gần nửa thế kỷ về sự thật lịch sử của ông là gì, thưa ông?

Nhà báo, nghệ sĩ ưu tú Phạm Việt Tùng: Tôi đã nói trước những nhà nghiên cứu lịch sử quân đội và nhiều học giả, “Kinh tế mất đi chúng ta có thể làm lại. Nhưng lịch sử thì chỉ có một thôi”.

Thành quả cách mạng của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta rất to lớn, cần phải được ghi lại thật cụ thể và chi tiết, nhưng chúng ta chưa làm được một bộ sử xứng đáng. Vì lí do này hay lí do kia, vẫn còn khá nhiều sạn, còn sai sót. Lịch sử phải là sự thật, không thể là “sử giả”, là giả dối. Đó là di sản chúng ta truyền lại cho thế hệ trẻ hôm nay và mai sau. Không thể bắt họ vái thứ đồ rởm, ca ngợi nhầm được. Bác Hồ dạy, chúng ta không sợ sai lầm, phát hiện sai thì phải sửa. Một nhà nghiên cứu văn hóa nói “Khi làm cách mạng chúng ta không tránh khỏi có lúc sai lầm. Chúng ta đã nhìn thẳng vào sự thật, chúng ta đã dũng cảm sửa sai. Có thế mới khắc phục được hậu quả của Cải Cách ruộng đất 1954, đưa tới xây dựng một hậu phương miền Bắc xã hội chủ nghĩa vững chắc làm tiền đề cho chiến thắng giải phóng miền nam 1975. Chúng ta dũng cảm làm công cuộc Đổi mới từ 1986, khắc phục những nhận thức còn sai lầm ấu trĩ, đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng, ổn định và phát triển theo con đường kinh tế thị trường định hướng xã hội Chủ nghĩa, mới có đất nước ta độc lập và phát triển như ngày hôm nay.

Chúng ta biết sửa sai mới có thể khiến dân tin Đảng, đi theo Đảng, gắn bó với Đảng. Cả Hiến Pháp, cả những chính sách lớn của Đảng, của Nhà nước bị sai còn sửa được. Lịch sử có còn chỗ ghi chép lại chưa đúng, vì sao lại không thể sửa?”.

Lịch sử rất quan trọng, là tấm gương cho thế hệ sau soi chiếu. Gương giả thì thì họ soi thế nào? Hậu quả sẽ không thể lường hết được. Sách giáo khoa lịch sử chưa được sửa lại mấy chi tiết này. Tôi mong muốn sau bộ phim này, các nhà viết sử, các nhà giáo dục, những người làm chính sách, hãy rà soát lại thật kĩ những gì chúng ta đã làm, đã viết, để nhặt hết những hạt sạn trong bộ sử vĩ đại về những chiến công của dân tộc ta. Ông Thệ có thế nhầm lẫn nhưng chúng ta không thể để lịch sử nhầm lẫn theo ông Thệ. Ông Thệ có thể nói dối nhưng lịch sử dân tộc thì không thể gian dối theo.

Mong muốn thứ hai của chúng tôi khi làm bộ phim này là những người anh hùng thầm lặng như 4 chiến sĩ trên chiếc xe tăng 390 ngày đó và Chính ủy Bùi Văn Tùng cần được Tổ quốc ghi công, Nhà nước nên trao cho họ những danh hiệu xứng đáng. Đến những người như ông Phạm Xuân Thệ, Bùi Quang Thận đã được phong Anh hùng mà những người thực sự có công đầu, nay đã được chứng minh, mà lại thầm lặng không được ai biết đến thì thật đáng tiếc. Công lao của những người lính xe tăng và nhất là của chính ủy Bùi Văn Tùng là rất lớn trong việc kết thúc chiến tranh và tiết kiệm xương máu. Dù kịch bản đầu hàng trước đó chưa hề chuẩn bị sẵn, nhưng khi tình huống phát sinh, thời cơ đến, ông Bùi Văn Tùng đã kịp thời nghĩ ra và soạn thảo ngay một văn kiện đầu hàng tức thời, yêu cầu ông Dương Văn Minh phải theo mình đến Đài Phát Thanh kêu gọi binh lính ngừng chiến. Hành động ấy không khác gì ông đã bấm nút tắt cho cuộc chiến tranh kéo dài 20 năm trên toàn cõi nước ta. Hành động ấy cũng góp phần tiết kiệm biết bao xương máu của những người lính giải phóng quân và cả của người lính Việt Nam Cộng hòa, đem lại hạnh phúc cho biết bao gia đình Việt Nam khi được đón những người con ra lính còn được trở về sau ngày thống nhất. Tôi được biết, chỉ riêng ngày 30/4/75 thôi, phía bên ta vẫn có hàng ngàn giải phóng quân ngã xuống, còn chưa kể biết bao người trở về với vết thương chiến tranh. Mất mát gì cũng tìm lại được. Chỉ có mất mát con người thì không gì bù đắp nổi. Chúng ta sẵn sàng hy sinh cho độc lập và thống nhất Tổ quốc. Nhưng nếu có thể tiết kiệm được, vì sao chúng ta không trân trọng?

Bởi vậy tôi nói hành động của Chính Ủy Bùi Văn Tùng lúc đó chính là chiến công có ý nghĩa to lớn và đầy sáng tạo, đầy nhân văn là sự thật. Đó là tư duy của người chỉ huy yêu nước, yêu dân, thương và hiểu lính, hiểu sâu sắc về cuộc chiến tranh. Bởi vậy, trong tâm thức những người lính của ông Tùng, cho đến hôm nay, sau gần nửa thế kỷ, ông không chỉ là một thủ trưởng tuyệt vời, ông chính là một vị anh hùng thật sự, một người lính yêu hòa bình. Nhân dân cũng đòi hỏi chúng ta phải thừa nhận ông Tùng là Anh hùng chính bởi chiến công này. Mặc dù ông Tùng chưa bao giờ lên tiếng đòi lại sự thật, cũng chưa bao giờ ông nói mong muốn mình được phong anh hùng. Đức tính giản dị của anh bộ đội cụ Hồ vẫn khiến ông làm một người lính cống hiến trọn vẹn và an nhàn hưởng tuổi già bên con cháu.

Từ nhiều năm nay, do bị ảnh hưởng của bệnh tai biến, ông đã dần quên rất nhiều thứ, nhiều người. Nhưng đến nay, ở tuổi 92, hàng ngày mọi sinh hoạt phải nhờ người thân chăm lo, Chính ủy Bùi Văn Tùng vẫn cầm tờ báo Quân đội nhân dân để đọc như một thói quen. Thời gian của người anh hùng không còn nhiều. Có thể ông không cần. Nhưng trách nhiệm của chúng ta là phải bù đắp những gì còn thiếu sót, làm những việc chưa kịp làm. Cần phải phong Anh hùng cho Chính ủy Bùi Văn Tùng. Dư luận nhân dân và anh em cựu chiến binh xe tăng ngày ấy mong muốn điều đó. Những người lính trên chiếc xe tăng 390 ngày ấy giờ đã mất đi 1 người cũng tha thiết mong muốn điều đó.

Mong muốn thứ ba của tôi là ông Phạm Xuân Thệ nên xin lỗi lịch sử, xin lỗi Đảng, xin lỗi nhân dân, xin lỗi những người đồng chí đồng đội của mình và xin lỗi ông Bùi Văn Tùng vì đã ăn gian và nhận vơ công trạng, làm thay đổi, sai lệch lịch sử.

Để ngày 30/4/75 ấy đi vào lịch sử mãi mãi là trang vàng chói lọi và hoàn bích, không một vết mờ. Để chúng ta không phải nuối tiếc vì những gì chưa kịp làm. Thời gian không mãi đợi chúng ta. Chiến tranh đã qua đi từ lâu rồi. Cần phải nhanh chóng hoàn thiện bộ lịch sử để chúng ta có thể khép lại những trang sử ấy và thênh thang bước sang những trang mới.

PV:- Xin cảm ơn ông!

Hải Nguyệt (thực hiện)https://danquyenvn.blogspot.com/2021/05/su-that-trua-ngay-3041975.html

Thứ Năm, 22 tháng 4, 2021

Trước ngày 30-4-1975

Trước ngày 30-4-1975

Trần Gia Phụng 

< A >
 Trong chiến tranh 1954-1975 vừa qua trên đất nước chúng ta, cả Bắc Việt Nam (BVN) và Nam Việt Nam (NVN) đều không sản xuất được vũ khí và đều nhờ nước ngoài viện trợ. Nước viện trợ chính cho NVN là Hoa Kỳ; và một trong hai nước viện trợ chính cho BVN là Liên Xô. Những biến chuyển từ hai nước nầy ảnh hưởng rất lớn đến tình hình chiến tranh Việt Nam.

1. Hoa Kỳ: Vụ Watergate

Tại Hoa Kỳ, trong cuộc bầu cử ngày 07-11-1972, đảng Dân Chủ chiếm đa số cả thượng viện lẫn hạ viện, trong khi đương kim tổng thống và phó tổng thống đảng Cộng Hòa là Richard Nixon và Spiro Agnew tái đắc cử nhiệm kỳ thứ hai. Cuối cùng cả hai ông đều từ chức vì hai lý do khác nhau.

Thứ nhứt, phó tổng thống Spiro Agnew bị cáo buộc tội hối lộ khi còn làm thống đốc tiểu bang Maryland. Ông từ chức ngày 10-10-1973. Ngày 12-10-1973, tổng thống Richard Nixon đề cử lãnh tụ khối thiểu số Cộng Hòa tại Hạ viện là Gerald Ford lên thay, được thượng viện chấp thuận ngày 27-11, và hạ viện thông qua ngày 6-12-1973.

Trong khi đó, tổng thống Richard Nixon gặp rắc rối về vụ Watergate. Tổ hợp Watergate ở thủ đô Washington DC gồm có sáu cơ sở, trong đó Watergate Office Building, số 2600 Virginia Ave. NW, trên tầng lầu 6, là nơi đảng Dân Chủ đặt tổng hành dinh.

Ngày 17-6-1972, năm người lạ mặt bị bắt khi đột nhập vào văn phòng đảng Dân Chủ. Cuộc điều tra của Cảnh sát Liên bang (FBI) về vụ đột nhập vào Watergate cho thấy năm người nầy đến văn phòng đảng Dân Chủ nhằm đặt máy nghe lén, để theo dõi sinh hoạt của đảng đối lập với tổng thống Richard Nixon, thuộc đảng Cộng Hòa. Dần dần người ta được biết rằng những nhân vật thân cận của tổng thống Nixon chủ trương vụ đặt máy nghe lén để chuẩn bị cuộc bầu cử tổng thống ngày 07-11-1972.

Vụ Watergate càng ngày càng nổ lớn. Từ ngày 9-5 đến 30-7-1974, Ủy ban Tư pháp Hạ viện Hoa Kỳ điều trần về vụ nầy, và ngày 30-7-1974 quyết định sẽ truy tố tổng thống Nixon. Để tránh bị truy tố, tổng thống Richard Nixon từ chức ngày 9-8-1974. Phó tổng thống Gerald Ford lên thay theo hiến định.

Những lời hứa hẹn của tổng thống Richard Nixon với tổng thống VNCH là Nguyễn Văn Thiệu, vốn mong manh vì không thông qua quốc hội, nay hoàn toàn tan biến theo sự từ chức của tổng thống Richard Nixon. Sự kiện nầy ảnh hưởng tức khắc đến tình hình Việt Nam.

Trong tài khóa chót, trước khi từ chức, tổng thống Richard Nixon quyết định viện trợ cho VNCH một tỷ Mỹ kim, nhưng ngày 11-8, quốc hội Hoa Kỳ do đảng Dân Chủ nắm đa số, cắt viện trợ xuống còn 700 triệu Mỹ kim. (John S. Bowman (tổng biên tập), The Vietnam War, Day by Day, New York: Maillard Press, 1989, tr. 212.)

Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu gởi thư ngày 19-9-1974 cho tân tổng thống Gerald Ford, đề nghị Hoa Kỳ cấp thêm cho VNCH 300 triệu Mỹ kim đã bị cắt. Gerald Ford chuyển đề nghị của tổng thống Thiệu qua quốc hội Hoa Kỳ, nhưng bị quốc hội bác bỏ ngày 13-3-1975. (Nguyễn Tiến Hưng, Khi đồng minh tháo chạy, California: Cơ sở xuất bản Hứa Chấn Minh, 2005, tr. 245.)

Sau chuyến viếng thăm Sài Gòn của đại tướng Frederick Weyand từ 27-3 đến 3-4-1975, tổng thống Gerald Ford đọc diễn văn trước quốc hội Hoa Kỳ ngày 10-4-1975, và xin viện trợ cho VNCH 722 triệu Mỹ kim. Ngày 14-4-1975, Ủy ban Ngoại gao Thượng viện chẳng những bác lời yêu cầu của tổng thống Ford, mà còn bảo tổng thống Ford rằng “hãy rút nhanh”. (Chính Đạo, 55 ngày đêm: Cuộc sụp đổ của Việt Nam Cộng Hòa, Houston, Nxb. Văn Hóa, 1999, tr. 299.)

Theo đại tướng Cao Văn Viên, tổng tham mưu trưởng quân đội VNCH, ngân khoản 700 triệu Mỹ kim viện trợ, bao gồm cả 46 triệu của cơ quan DAO (Defense Attach Office) tức Phòng Tùy viên Quân sự Hoa Kỳ được thành lập ngày 28-1-1973.) Số còn lại chỉ cung cấp được một nửa nhu cầu thiết yếu của quân đội VNCH, trong khi hoạt động quân sự của cộng sản (CS) gia tăng 70%. (Cao Văn Viên, Những ngày cuối của Việt Nam Cộng Hòa, (nguyên bản The Final Collapse), Nguyễn Kỳ Phong dịch, không đề nơi xuất bản, Vietnambibliography, 2003, tr. 83, 85.)

Sự kiện Watergate ngày 17-6-1972 chỉ là một biến cố nhỏ trong nền chính trị Hoa Kỳ, nhưng ảnh hưởng rất lớn đến chiến tranh ở Việt Nam, vì sau đó quốc hội Hoa Kỳ cắt giảm viện trợ cho VNCH.

2. Liên Xô: Cam kết của Kulikov

Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH) ở BVN do đảng Lao Động cai trị. Đảng Lao Động tức đảng CS đổi tên năm 1951. Tại Hà Nội, trong cuộc họp từ ngày 30-9-1974 đến ngày 8-10-1974, bộ Chính trị (BCT) đảng Lao Động đưa ra chủ trương “giải phóng miền Nam trong hai năm 1975-1976”, đồng thời phê chuẩn kế hoạch hai năm và kế hoạch tác chiến năm 1975 của bộ Tổng tham mưu quân đội CS. (Viện Nghiên Cứu Chủ Nghĩa Mác Lênin Và Tư Tưởng Hồ Chí Minh, Lịch sử đảng Cộng Sản Việt Nam, tập II (1954-1975), Nxb. Chính Trị Quốc Gia, 1995, tr. 648.)

Lúc đó, kế hoạch quân sự tại NVN năm 1975 của BCT đảng Lao Động là CS tiếp tục lấn đất giành dân, chỉ sử dụng 10% võ khí dự trữ, tấn công những mục tiêu lẻ tẻ, làm tiêu hao lực lượng VNCH. Đến cuối năm 1976, khi diễn ra cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ thì CS sẽ tiến đánh toàn bộ NVN. Như thế nghĩa là kế hoạch năm 1974 của CS dự tính chưa tổng tấn công NVN trong năm 1975.

Giữa tháng 11-1974, bí thư Trung ương cục miền Nam là Phạm Hùng cùng Trần Văn Trà, tư lệnh mặt trận B2 của CS, đến Hà Nội. (Mặt trận B2 của CS từ Bình Thuận xuống tới Ca Mau.) Hai ông đề nghị đánh Đôn Luân (Đồng Xoài) và chiếm tỉnh Phước Long vì: 1) Về quân sự, chiếm Phước Long làm thông đường chiến lược từ khu phi quân sự xuống tận vùng III Chiến thuật của VNCH, đồng thời cầm chân tại đây các đơn vị tổng trừ bị VNCH. 2) Về chính trị, chiếm được Phước Long sẽ làm giảm uy tín của VNCH và thử đo lường phản ứng của Hoa Kỳ sau khi rút quân và sau hiệp định Paris (27-01-1973).

Kế hoạch nầy lúc đầu không được Quân ủy Trung ương đảng Lao Động chấp thuận vì Bộ Tổng tham mưu BVN đã soạn sẵn kế hoạch hành quân năm 1975 và đã được BCT đảng Lao Động thông qua. Ngày 3-12-1974, Phạm Hùng và Trần Văn Trà khiếu nại với Quân ủy Trung ương, nhưng cũng bị từ chối.

(Nguồn: Bản đồ trích từ Internet)

Sau đó khoảng 10 ngày, Phạm Hùng cùng Trần Văn Trà gặp Lê Duẩn, bí thư thứ nhứt đảng Lao Động, thì Lê Duẩn chấp thuận đánh Đôn Luân và Phước Long với điều kiện “phải chắc thắng và không được sử dụng lực lượng lớn” để tiết kiệm võ khí. Trần Văn Trà liền gởi điện về miền Nam, ra lệnh cho lực lượng CSNVN tiến hành chiến dịch Phước Long. (Trần Văn Trà, Kết thúc cuộc chiến tranh 30 năm, TpHCM: Nxb. Văn Nghệ Thành Phố, 1982, tr. 170.)

Trong khi BCT đảng Lao Động ở Hà Nội đang chọn hướng tấn công, thì nguồn tin tình báo cao cấp của CS cài vào dinh Độc Lập cho biết rằng trong cuộc họp hai ngày 9 và 10-12-1974 giữa tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, thủ tướng Trần Thiện Khiêm và các tướng lãnh, hội nghị đã dự đoán rằng CS sẽ đánh chiếm Tây Ninh nhằm làm thủ đô cho chính phủ Lâm thời CHMNVN. Vì thế tổng thống Thiệu dự tính đưa các lực lượng Nhảy Dù và Thủy Quân Lục Chiến về bảo vệ ven đô Sài Gòn. Nguồn tin nầy đến giới lãnh đạo Hà Nội trễ nhứt là ngày 20-12-1974. (Chính Đạo, sđd. tt. 152-153. Trần Đông Phong, sđd. tr. 73.) Theo cựu trung tướng VNCH Trần Văn Đôn, trong Việt Nam nhân chứng (California: Nxb. Xuân Thu, 1989, tr. 159 và tr. 498), sau khi bị ném bom ngày 27-2-1962 thời tổng thống Ngô Đình Diệm, dinh Độc Lập được tái thiết. Cả Hoa Kỳ lẫn CS Bắc Việt Nam đều cho người trà trộn vào nhóm chuyên viên, đặt máy truyền tin nghe lén trong dinh Độc Lập.

Vào dịp “Lễ kỷ niệm 30 năm thành lập quân đội” VNDCCH (22-12-1944 / 22-12-1974), đại tướng Viktor Kulikov, thứ trưởng bộ Quốc phòng kiêm tổng tham mưu trưởng Hồng quân Liên Xô, đại diện cho Hồng quân Liên Xô, đến Hà Nội tham dự

Trước ngày 22-12-1974, Viktor Kulikov có mặt tại hội nghị lần thứ 23 của ban Chấp hành Trung ương đảng Lao Động khai mạc ngày 18-12-1974, để bàn về kế hoạch tấn công NVN trong hai năm kế tiếp (1975-1976). Trong cuộc họp nầy, Kulikov thông báo cho Trung ương đảng Lao Động hai điều: 1) Theo tin tình báo Liên Xô, Hoa Kỳ sẽ ngưng cung cấp viện trợ kinh tế và quân sự cho NVN, nên đây là cơ hội thuận tiện để BVN tấn công NVN. 2) Liên Xô cam kết gia tăng viện trợ quân sự cho BVN, để tấn công NVN.

Sau khi dự lễ tại Hà Nội ngày 22-12-1974, Viktor Kulikov về Moscow. Ngay sau đó, viện trợ Liên Xô tăng gấp bốn (4) lần trong các tháng đầu năm 1975. (Henry Kissinger, Years of Renewal, New York: Simon & Schuster, 1999, tr. 481.)

Lúc đó, Liên Xô tăng viện cho BVN có thể vì ba lẽ: 1) Liên Xô muốn trả đũa Hoa Kỳ về vụ quốc hội Hoa Kỳ đưa tu chánh vào bản Hiệp ước về thương mại 1974 (The Trade Act 1974), giới hạn việc cho Liên Xô vay tiền nếu Liên Xô gây khó khăn cho người Do Thái di dân qua các nước khác. Liên Xô cho rằng Hoa Kỳ can thiệp vào việc nội bộ của Liên Xô. (Trần Đông Phong, sđd. tt. 27-28.) 2) Liên Xô muốn lôi kéo Bắc Việt Nam về phía Liên Xô trong cuộc tranh chấp với Trung Cộng. 3) Liên Xô nhận thấy sau khi Hoa Kỳ ngưng viện trợ cho VNCH, VNCH hết hỏa lực, chắc chắn sẽ thất bại trước những cuộc tấn công với hỏa lực dồi dào của BVN, nghĩa là Liên Xô đầu tư cho tương lai ở Đông Nam Á.

Kết luận

Tóm lại sau hiệp định Paris (27-01-1973), trong khi Hoa Kỳ cắt giảm viện trợ đạn dược và nhiên liệu cho VNCH, khiến quân đội VNCH thiếu phương tiện chiến đấu, thì trái lại, Liên Xô gia tăng gấp bốn (4) lần viện trợ quân sự cho quân đội VNDCCH, làm cho tương quan lực lượng giữa hai bên trong cuộc chiến, nghiêng hẳn về phía VNDCCH.

Những diễn biến chính trị trên đây trong năm 1974 cho thấy viễn ảnh rất khó khăn của VNCH trong năm 1975. (Nguồn: Chiến tranh 1954-1975, sẽ xuất bản.)

(Toronto, tháng 4-2021)

Chủ Nhật, 11 tháng 4, 2021

Phan Ngọc Thọ xua quân tát vào mặt Nguyễn Phú Trọng hay thực sự là lòng dân ?

 Phan Ngọc Thọ xua quân tát vào mặt Nguyễn Phú Trọng hay thực sự là lòng dân ?

Chủ Nhật, 11 tháng 4, 2021

 Sự kiện ông Phan Ngọc Thọ chủ tịch Thừa Thiên Huế bị Ban Bí Thư gửi ý kiến ban thường vụ tỉnh uỷ Thừa Thiên Huế, không đồng ý ông này tiếp tục tham gia ứng cử đại biểu hội đồng nhân dân tỉnh, đang là một sự kiện gây chú ý trong tuần qua.

Nếu như đây là trường hợp về hưu đúng tuổi ( quá quy định 1,5 tháng ) bình thường, chắc hẳn báo chí không đưa tin nhiều, ban bí thư cũng không phải ý kiến chỉ đạo ông Thọ không được tham gia khoá mới.

Theo như cách ông Thọ trả lời báo chí, là dân tình rất mong muốn ông làm tiếp, nhưng chỉ đạo của ban bí thư ông phải chấp hành. Ông mong muốn các đồng chí sau sẽ phát huy tốt.

Trong lúc bấp bênh chờ quyết định của Ban Bí Thư, chủ tịch tỉnh Phan Ngọc Thọ đã mời một nhóm nhân sĩ, trí thức yêu nước, cấp tiến, rất có tâm huyết đến đàm đạo.  Ngay sau khi có quyết định BBT không cho ông tham gia tiếp. Những bài viết ca ngợi ông Thọ xuất hiện trên mạng xã hội rất nhiều. Người ta còn lập ra trang Facebook  có tên Những Người Yêu Mến Phan Ngọc Thọ được nhà báo Nguyễn Đăng Hậu kêu gọi mọi người tham gia và kêu gọi 10 người khác tham gia, hoặc trang Ủng Hộ Chủ Tịch Phan Ngọc Thọ.

Báo Pháp Luật còn có bài viết mà sự ấm ức với quyết định của Ban Bí Thư được thể hiện ngay trên tiêu đề bài báo.

https://baophapluat.vn/nhip-song-hom-nay/vi-sao-vi-chu-tich-ubnd-tinh-duoc-long-dan-lai-khong-duoc-tai-cu-579332.html

Theo như bài viết của báo Pháp Luật, ông Thọ đã lọt qua 2 vòng hiệp thương và nhận số ủng hộ rất cao. Nhưng chưa đến vòng 3 thì bị chỉ đạo từ trên xuống, ông phải về hưu vì quá hơn một tháng tuổi. Đây cũng hiểu là ông Thọ đã không tự ý rút từ đầu, đến khi có lệnh của Ban Bí Thư ông mới buộc phải rút. Tức nếu cứ để theo lòng dân, hoặc lòng cấp dưới của ông ở Thừa Thiên Huế, thì ông ăn chắc tái cử thêm nhiệm kỳ chủ tịch nữa.

Nhà văn, nhà báo Lưu Trọng Văn viết trên facebook bài viết Vị Chủ Tịch Được Dân Yêu. Trong đó có những hình ảnh xúc động khi chủ tịch Thọ gặp người lao công, chị giáo viên, những người dân nghèo lao động....những hình ảnh đầy cảm xúc chỉ có chủ tịch Hồ Chí Minh trước kia và chủ tịch Nguyễn Phú Trọng vừa đây mới có.

Những bài viết, những ý kiến của người dân, những bài báo...khắp nơi người ta ca ngợi Phan Ngọc Thọ và buồn, ấm ức với cái quyết định trái lòng dân của Ban Bí Thư trung ương đảng. Những bài viết khiến người ta so sánh tại sao tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng 77 tuổi vẫn ngồi với lý do được dân yêu mến, mà ông Phan Ngọc Thọ còn được dân yêu mến nhiều hơn lại phải về hưu khi mới 58 tuổi. 

Càng nhiều bài viết như thế, càng nhiều ý kiến quý mến ông Thọ như thế. Càng cho thấy cái đất nước này quy trình nhân sự của đảng thật khốn nạn. Một người chủ tịch được dân yêu mến, làm được bao điều cho tỉnh của mình, tấm chân tình của ông Thọ khiến cho bao nhiêu nhân sĩ, trí thức yêu nước phải rung động cất lên lời. Vậy mà cái cơ chế khốn nạn của đảng, đã tàn nhẫn loại một người cán bộ yêu nước, thương dân ấy ra khỏi bộ máy vì quá hơn tháng tuổi, trong khi bất chấp mọi quy định, điều lệ để cho một kẻ già nua, ốm yếu như Nguyễn Phú Trọng tiếp tục ở ngôi vị cao nhất.

Có lẽ những người hâm mộ, ủng hộ Phan Ngọc Thọ cần khẩn trương sáng tác bài hát.

- Anh ơi, xin anh đừng về.

May ra Ban Bí Thư sẽ nghe vui tai mà cho ông.



Thọ ở lại, như trường hợp ông Nguyễn Phú Trọng.

Nếu tôn trọng ý kiến, nguyện vọng của người dân Huế đã thể hiện trên các trang Facebook mới lập kia và những bài viết của nhân sĩ, trí thức yêu nước. Ban Bí Thư khoá 13 nên có hành động dũng cảm nhận sai lầm, rút lại quyết định và đồng ý cho ông Thọ được tái cử.

Còn không có lý do gì khác, chẳng hạn ông Thọ vướng vụ việc gì, chỉ đúng việc ông Thọ chỉ quá một tháng tuổi, mà can thiệp thô bạo xuống tỉnh để ông Thọ phải về hưu trong sự đau buồn vô hạn của người dân , nhân sĩ thể hiện vừa qua. 

Đó là cái tát vào mặc kẻ tham quyền, cố vi Nguyễn Phú Trọng và vạch trần sự thối nát của cái gọi là quy trình nhân sự đảng.

http://nguoibuongio1972.blogspot.com/2021/04/phan-ngoc-tho-xua-quan-tat-vao-mat.html