Thứ Tư, 28 tháng 2, 2018

Nhà hoạt động xã hội người Việt bị bắt giữ tại Hà Nội

Nhà hoạt động xã hội người Việt bị bắt giữ tại Hà Nội



2018-02-26
Blogger hoạt động Việt Nam Phạm Đoan Trang nói chuyện với RFA ở Washington, ngày 27 tháng 1 năm 2015.
Blogger hoạt động Việt Nam Phạm Đoan Trang nói chuyện với RFA ở Washington, ngày 27 tháng 1 năm 2015.













CẬP NHẬT vào lúc 11:10 sáng ngày 2018-02-27
Một blogger của các nhà hoạt động xã hội Việt Nam đã bị bắt giam 23 giờ trong khi họ hỏi cô về một cuốn sách mà cô viết đã được đưa về nhà vào tối chủ nhật và bị quản thúc tại gia, một số nhà hoạt động xã hội của cô nói.
Các nhân viên an ninh đã bắt giữ Phạm Đoan Trang vào thứ bảy để hỏi cô về các hoạt động của cô và một cuốn sách có tiêu đề Chính trị cho Mọi ngườimà cô xuất bản năm ngoái, các nhà hoạt động cho biết thêm rằng các dịch vụ internet và điện trong nhà cô đã bị cắt đứt.
"Đây dường như là một nỗ lực liên tục gây nhiều áp lực lên tôi trước khi họ bắt tôi", theo một bài đăng trên Facebook của Facebook vào ngày chủ nhật bởi nhà hoạt động blog Trịnh Kim Tiến, người đã nói chuyện với Trang qua điện thoại.
Cuốn sách dài 500 trang của Trang "rất hữu ích cho người Việt Nam theo nghĩa là nó làm cho chính trị dễ hiểu đối với các khán giả bình thường", Tiên viết "ấn bản thứ hai của nó sẽ sớm được công bố trên Amazon. của cuốn sách đang được in. "
Tờ nhật báo Luat Khoa Tap Chi, người Trang đã đồng sáng lập, đã đưa ra tuyên bố chủ nhật hôm Chủ nhật về việc bắt giam cô sau khi cô bị cảnh sát bắt cóc và bắt buộc phải đến trụ sở của cơ quan an ninh điều tra theo Bộ Công an.
Bài đăng trên blog đã lên án việc bắt cóc Trang, nói rằng cô không được cơ quan an ninh thông báo về lệnh bắt giữ hoặc giam giữ.
Nó cũng nói rằng hành động của nhân viên an ninh là một tội danh "lợi dụng chức vụ, quyền hạn để bắt, giữ hoặc giam cầm bất hợp pháp một người" theo Điều 377 của Bộ luật Hình sự hoặc "bắt giữ hoặc giam giữ ai đó một cách bất hợp pháp" theo Điều 157.
Các nhà chức trách cũng bắt buộc Trang phải ký các văn bản xác minh các cuộc phỏng vấn mà bà đã làm từ năm 2015, ông Tiến nói.
"Trước khi để cô ấy đi, họ không quên đe dọa cô ấy rằng nếu cô ấy làm nên một câu chuyện lớn, họ sẽ theo cô ấy với một cái gì đó to hơn", Tien viết. "Trang không được đi đâu cả. Họ muốn cô ấy im lặng và hợp tác với họ. "
Hôm thứ ba, Phóng viên Không Biên giới Paris (RSF) lên án cuộc bức hại của chính quyền và gia đình bà và kêu gọi áp lực quốc tế lên chế độ.
Nhóm cũng kêu gọi Việt Nam chấm dứt cuộc đàn áp các phóng viên và blogger độc lập và kêu gọi Quốc hội Châu Âu không phê chuẩn một hiệp định thương mại tự do giữa khối và Việt Nam dự kiến ​​sẽ được thông qua trong những tháng tới và sẽ có hiệu lực vào cuối năm.
Daniel Bastard, người đứng đầu của RSF, cho biết: "Việc bắt giữ một số người như Phạm Đoan Trang, người được ca ngợi quốc tế vì lòng dũng cảm và chất lượng của bài báo xuất bản, cho thấy một mức độ mới trong chính sách của chính phủ Việt Nam nhằm trấn áp các phóng viên và blogger độc lập" Châu Á-Thái Bình Dương, trong một tuyên bố. "Cộng đồng quốc tế phải ngay lập tức rút ra những kết luận thích hợp."
Một tạm thời khác
Đây không phải là lần đầu tiên Trang bị tạm giam và thẩm vấn về các hoạt động của cô.
Ngày 16 tháng 11, chính quyền đã bắt giữ và thẩm vấn Trang và hai blogger hoạt động khác sau khi gặp các đại diện của Liên minh châu Âu để thảo luận về tình hình nhân quyền ở Việt Nam.
Cảnh sát tịch thu đồ đạc của Trang, bao gồm cả máy tính và điện thoại, và đưa cô về nhà vào lúc nửa đêm cùng ngày.
Bản sao của cuốn sách của Trăng, được đánh giá là nhạy cảm về mặt chính trị ở Việt Nam, đã được các công ty hải quan tại thành phố biển miền Trung Đà Nẵng thu giữ vào ngày 9 tháng 2 khi chúng được đưa ra nước ngoài từ nước ngoài.
Trang mới đây đã nhận được giải Homo Homini của People In Need, một tổ chức nhân quyền quốc tế có trụ sở tại CH Séc, công nhận những cá nhân dành riêng cho việc phát triển các giải pháp bất bạo động về quyền con người, dân chủ, và bất bạo động.                RFA

Tết Mậu Thân 1968 và văn chương

Tết Mậu Thân 1968 và văn chương

Năm mươi năm trôi qua, khoảng thời gian vừa đủ cho một đứa bé ra đời, lớn lên, tập tễnh vào đời, va đập cuộc sống và lần mò bước qua bên kia dốc cuộc đời để chiêm nghiệm về đời người, về nhân tình thế thái. Ấy cũng là khoảng thời gian mà vết đau lịch sử vẫn còn âm ỉ, đúng nửa thế kỉ trước, trong khoảnh khắc giao thừa Tết Mậu Thân, những tiếng súng khai cuộc tổng tiến công từ những người lính Cộng sản Bắc Việt khiến cho người dân miền Nam ngỡ đó là tiếng pháo nổ, để rồi vài mươi giờ sau, một biến cố tan thương khảm dấu vào lịch sử. Và suốt chiều dài nửa thế kỉ, những xác người vẫn còn lẩn khuất đâu đó giữa lòng đất mẹ oan khiên!
Cuộc chiến Mậu Thân 1968 đã đi vào văn chương như một vết đau khôn nguôi, những tác phẩm văn chương như Dải khăn sô cho Huế của Nhã Ca, hồi ký Không Biên Giới của Nguyễn Thị Thanh Sung, Bài Ca Viết Cho Những Xác Người và hát Trên Những Xác Người của Trịnh Công Sơn, Chuyện Một Chiếc Cầu Đã Gãy của Trầm Tử Thiêng, Chuyện Một Đêm của Anh Bằng, Dáng Đứng Việt Nam của Lê Anh Xuân…
Họ không lên án hay gì cả nhưng các tác phẩm này gây xúc động, bởi vì các tác phẩm này đánh đúng vào thời điểm đó, - Nhạc sĩ Đynh Trầm Ca
Có thể nói số lượng tác phẩm văn chương cả hai phía Nam và Bắc vĩ tuyến 17 viết về chiến trận Mậu Thân 1968 không hề nhỏ, trong đó, có một số tác phẩm của các nghệ sĩ miền Nam Cộng Hòa đã thành bất hủ, sự hiện hữu của tác phẩm như một chứng tích tâm hồn về một cuộc binh biến đau thương. Và nỗi đau này đã vượt thời gian, thấm đẫm tâm hồn những thế hệ sau.
Nhắc về tác phẩm văn chương trong cuộc binh biến Mậu Thân 1968, nhạc sĩ Đynh Trầm Ca, người đoạt giải Kim Khánh những năm đầu thập niên 1960 với ca khúc Ru Con Tình Cũ, chia sẻ: “Mậu Thân, sau cái thảm họa đó thì những tác phẩm nó ra đời và gây sự xúc động lớn, như Dải khăn sô cho Huế của Nhã Ca, như âm nhạc thì có Trầm Tử Thiêng – chuyện một chiếc cầu đã gãy... Họ không lên án hay gì cả nhưng các tác phẩm này gây xúc động, bởi vì các tác phẩm này đánh đúng vào thời điểm đó, cái thật của cuộc chiến đó. Sau Mậu Thân thì các tác phẩm văn học miền Nam xoay quanh cuộc chiến này như một sự tưởng niệm...”.
Nhạc sĩ Đynh Trầm Ca chia sẻ thêm là hiện tại, trí nhớ của ông không còn được minh mẫn như trước đây vài năm bởi chứng tia biến não. Nhưng những cảm xúc, những nỗi đau mất mát trong chiến rtanh thì không bao giờ nguôi trong tâm hồn một nghệ sĩ. Nhắc về chiến tranh, giọng ông trở nên xúc động bồi hồi, ông nhắc tên những tác phẩm văn chương như đang gọi tên những người bạn thiết đã lâu ngày không gặp.
Có thể nói rằng tác phẩm viết về chiến cuộc Mậu Thân 1968 gồm nhiều thể loại, nhưng có hai góc nhìn riêng biệt, góc nhìn của các nghệ sĩ phiá Nam vĩ tuyến 17 thiên về nỗi đau, nỗi mất mát, xuyên suốt tác phẩm văn chương, thi ca của miền Nam Việt Nam là nỗi đau, cái nhìn nhân ái và những trăn trở nhân sinh về kiếp người, về chiến tranh cũng như những di họa của nó.
Ngược lại, các tác phẩm văn chương nghệ thuật của các nghệ sĩ Bắc vĩ tuyến 17 mang đậm tính chất anh hùng ca, mỗi ca từ, câu văn, cú pháp trong mỗi tác phẩm như những phát súng xung trận, nhuốm màu khói lửa, tiếng hô xung phong và hò reo chiến thắng.
Nhà văn, nhà phê bình văn học Phạm Xuân Nguyên, người vừa từ bỏ chức danh Chủ tịch Hội nhà văn Hà Nội, nhận xét: “Cuộc chiến Mậu Thân hình như chỉ có một cuộc chiến tiêu biểu của ông Xuân Thiều, đại tá quân đội. Ngay cả Đất Trắng của Nguyễn Trọng Oánh, viết những năm 1978, 1979 cuốn này nói về một cấp chỉ huy,cấp chính ủy của phía Bắc chịu không nổi gian khổ đã ra đầu hàng phía Nam...Có thể đây là lần đầu tiên văn học miền Bắc nói đến chuyện đầu hàng trong chiến tranh...”.
Nhưng có một thực tế là cho dù những tác phẩm của các nghệ sĩ phía Bắc vĩ tuyến 17 cho dù mang tính xung trận, mang hơi hướm tuyên truyền nhưng vẫn không giấu được giọt nước mắt trong sâu thẳm tâm hồn của người nghệ sĩ. Cuộc chiến tử sinh, một chiến cuộc đã lấy đi quá nhiều sinh mạng đồng đội của họ, cho dù đứng trên biên kiến nào thì nỗi đau, nỗi mất mát vẫn là điều không thể giấu được.
Nếu như nói về chiến tranh, nói về Mậu Thân thì mình đọc những tác phẩm văn học miền Nam. - Nhà thơ Đỗ Trung Quân
Điều này trở nên rõ ràng hơn trong tác phẩm Nỗi Buồn Chiến Tranh của nhà văn Bảo Ninh. Bảo Ninh không viết về cuộc chiến Mậu Thân 1968, ông viết về nỗi đau chung của chiến tranh, trong đó có cả bóng dáng của chiến dịch Mậu Thân và chiến dịch Tổng tiến công mùa Xuân 1975. Với ông, chiến tranh là một nỗi buồn, và nỗi buồn này đeo đăng suốt một thế hệ, nhiều thế hệ mà chiến tranh đã để lại vết tích trên thân thể lịch sử của nó.
Cuộc chiến trong mắt Bảo Ninh là một ván bài mà ở đó, tất cả đều thua, không hề có người thắng cuộc, kẻ thắng cuộc ẩn danh duy nhất mà ông tiết lộ có lẽ là hố chôn bộ bài cũng như nỗi ám thị thắng thua trên mặt quân bài. Và chiến tranh đã lấy đi cái đẹp, lấy đi tuổi xuân, lấy đi tính nhân văn của con người một cách không thương tiếc.
Với nhà văn từng sống, trải nghiệm tuổi thơ chiến tranh ở Sài Gòn như nhà thơ Đỗ Trung Quân, ông chia sẻ: “Cho mình xem thử tác phẩm văn chương về Mậu Thân 1968? Mình chưa thấy! Nếu như nói về chiến tranh, nói về Mậu Thân thì mình đọc những tác phẩm văn học miền Nam, đó là những tác phẩm mô tả nỗi bi thương, nỗi mất mát của chiến tranh chứ không phải là tụng ca hay nói về chiến thắng. Mình không thấy gì ngoài nỗi mất mát...”.
Một cuộc chiến đã đi qua 50 năm, đúng nửa thế kỉ, nhưng cái chết, nỗi đau vẫn như vừa sơ sinh, tiếng khóc và trận gió oan hồn trong cuộc chiến vẫn còn phảng phất đâu đó trong gió tháng Chạp.
Nói cho cùng, chiến tranh là một thứ gì đó làm người ta mất mát quá nhiều và nó chỉ xứng đáng để hồi tưởng, để nhớ, để tưởng niệm và kính cẩn nghiêng mình với sự mất mát, với cái chết, với vết thương dân tộc. Chiến tranh hoàn toàn không xứng đáng để ngợi ca cho dù đứng trên biên kiến nào. Những hành động ngợi ca chiến tranh, ngợi ca sự mất mát không thể ngồi chung với văn minh nhân loại.
Bài viết ngắn ngủi này xin được xem như một sự tưởng tiếc, nghiêng mình kính cẩn trước các oan hồn Việt Nam đã ngã xuống và vĩnh viễn im hơi lặng tiếng trong chiến cuộc Mậu Thân 1968. Bài viết như một nén tâm nhang của thế hệ hậu chiến tranh viết về mối cảm hoài trong một buổi chiều cuối năm, nghĩ về quê hương, đất nước!
Nhóm phóng viên rfa tường trình từ Việt Nam

Thứ Ba, 27 tháng 2, 2018

Huế 1968 - Mậu Thân

Huế 1968 - thảm khốc và hy vọng 

Nhã Ca
Sau trận Tết Mậu Thân, phía Mỹ và Việt Nam Cộng hòa chiếm lại được một thành Huế tan hoang.
Bên cạnh việc dọn dẹp, tái thiết thành phố, những hố chôn người tập thể dần dần được phát hiện.
Trong số những tin tức, tường thuật, phóng sự, ghi chép được đăng tải ở miền Nam Việt Nam về 'thảm sát ở Huế' khi đó, bút ký Giải Khăn Sô Cho Huế của Nhã Ca đã gây choáng váng dư luận. Một phần của sách sau này được dựng thành phim "Đất Khổ", với Trịnh Công Sơn vào vai chính, người con nhạc sĩ Huế.
Tác giả cuốn sách nói bà đã có mặt tại cố đô trong những ngày Tết Mậu Thân, tận mắt chứng kiến và trực tiếp nói chuyện với các nhân chứng về cuộc giao tranh, về các cuộc bắt bớ, về những nấm mồ tập thể...
Cuốn sách bị cấm lưu hành tại Việt Nam sau khi Sài Gòn sụp đổ. Tác giả cùng chồng bị bắt giam, nhà cửa tài sản bị tịch thu. Là cây bút nữ duy nhất trong số cả trăm nhà văn nhà báo Saigon bị cầm tù, 14 tháng sau bà được phóng thích cùng 21 đồng nghiệp.
Nhân 50 năm trận chiến 1968, BBC phỏng vấn nhà văn miền Nam, người đã trực tiếp sống và viết với Huế Tết Mậu Thân.
hue1
Thành phố Huế tan hoang trong trận Tết Mậu Thân 1968
Nhã Ca : Là kẻ sống sót sau tàn sát thời chiến và tù đày hậu chiến, tôi luôn tin vào tương lai của Huế, tương lai Việt Nam.
Tôi tin vào tình yêu, tình người, tình gia đình, và tin là người Việt mình từng biết thế nào là ăn ở tử tế. Như Quốc Văn Giáo Khoa Thư đã dạy, tôi tin dân tộc mình cũng là một gia tộc. Anh em, con cháu một nhà có thể bất hòa hoặc tranh chấp, nhưng rồi sau cùng, tất cả cũng vẫn phải về đứng bên nhau trước bàn thờ chung trong ngày giỗ gia tiên.
Tại Huế cũng như tại Việt Nam, từ bao năm qua, mọi hình thức tập họp của dân chúng, dù chỉ tại đền chùa để tưởng niệm cầu siêu cho những hồn oan trong cuộc chiến, vẫn tiếp tục bị ngăn chặn và trấn áp thô bạo.
Với chính quyền trong nước, trận chiến Tết Mậu Thân đến nay vẫn chỉ là thứ đại lễ mừng chiến thắng. Năm mươi năm rồi vẫn vậy. Nhưng dù bao lâu đi nữa, vết thương vẫn sẽ đến lúc buộc phải mở ra chữa trị.
Một thế hệ hiểu biết hơn, khôn ngoan hơn, sẽ biết cách thu xếp gánh nặng ông cha họ bỏ lại. Niềm tin ở một Việt Nam tương lai và một Huế tương lai cho tôi hy vọng ấy.
BBC : Là người có mặt tại Huế trong thời gian xảy ra cuộc tấn công Tết Mậu Thân, lúc nào là thời điểm bà nhận ra lực lượng cộng sản đã vào chiếm thành phố ?
Nhã Ca : Cuộc tấn công bắt đầu lúc nửa đêm về sáng ngày mồng Một Tết. Với người dân tại miền Nam như tôi, đó là một đêm hưu chiến vốn vẫn được các phe tôn trọng nhiều năm trước.
Riêng Tết Mậu Thân, còn có tin phía Hà Nội và Mặt Trận Miền Nam xác nhận không chỉ hưu chiến ba ngày Tết như mọi năm, mà sẽ ngưng bắn luôn bảy ngày để đồng bào an tâm mừng Tết dân tộc.
Đêm Tết năm ấy pháo nổ ran khắp nơi. Tiếng súng thoạt đầu có thể lẫn vào tiếng pháo. Nhưng với gia đình tôi thì không thể lẫn được, vì súng nổ ngay trong vườn nhà, nghe buốt tai, buốt óc. Một người em bảo đó là tiếng súng AK, bọn họ đầy vườn.
Ngay sáng đầu năm, khi chạy ngoài đường, tôi thấy những người lính miền Bắc mặc quân phục mang súng AK hoặc ống thép gắn đạn gọi là B40. Thời đó, quân chính quy miền Bắc xâm nhập đã được trang bị hai loại vũ khí Liên Xô tối tân này, trong khi quân đội VNCH chưa có loại tương đương.
Nghe AK tróc tróc, nghe B40 ình ình rồi nhìn xe tăng phía VNCH và Mỹ bị bắn ở An Cựu, tôi được biết lực lượng cộng sản đã vào chiếm thành phố.
BBC : Bà đã trực tiếp nhìn thấy hoặc gặp gỡ những cảnh, những người như thế nào, đã chứng kiến chuyện gì trong những ngày đó ?
Nhã Ca : Ngay khi phải ra khỏi nhà, tôi thấy bên đường đầy xác người. Trong số người gục chết, có những bà mẹ mang áo dài, những cô gái mang áo mầu ngày Tết, có cả từng khúc chân tay người vương vãi.
Cùng đoàn người chạy giữa lằn đạn, tôi từng thấy chính mình ngộp ngụa trong máu khi bị xô đè bởi xác người vừa bị bắn đổ xuống, có lần không phải người, mà là một con chó không biết từ đâu tới. Xin lỗi lỡ lời là bị xô, bị đè. Lẽ ra, phải nói là được che phủ, che chắn, vì sau cùng tôi thấy mình sống sót.
hue2
Cung An Định bốc cháy trong những ngày Tết Mậu Thân - một cảnh trong phim Đất Khổ
Trong cảnh bom đạn chớp lóa, tôi thấy Cung An Định của bà Hoàng Thái Hậu bốc cháy, thấy Bà Từ Cung mẹ Vua Bảo Đại mặc áo gấm đeo trên lưng một người không biết nam hay nữ. Từ cầu thang cung điện ngộp khói lửa lao xuống, đoàn người theo phò bà Thái Hậu luôn miệng hô "Ngài Ngự, Ngài Ngự", đạp cả lên đầu đám dân đang núp đạn để chạy.
Tuy là Phật tử nhưng từ chiều tối mùng Một Tết, nơi đầu tiên chúng tôi tới được lại là một nhà thờ Thiên Chúa. Đó là khu Dòng Chúa Cứu Thế nổi tiếng ở Huế.
Nhà thờ liên tiếp bị tràn ngập bởi cả người sống lẫn người chết. Không biết cơ man nào là người. Trong nhà giảng, ngay trên bệ thờ cao, bên chân tượng Chúa Cứu Thế, người lớn con nít nằm ngồi chen chúc. Khu nhà ngang đầy người bị thương và xác chết.
Từ mọi xó xỉnh trong nhà thờ tới hang đá ngoài sân, đủ thứ chuyện xẩy ra, lẫn lộn. Mọi lằn ranh hầu như bị xóa nhòa. Sự chết, sự sống không ngừng bị chấn động, biến hiện. Có bà mẹ ôm chặt bọc tã giấu xác con thơ đã bốc mùi. Có bà mẹ trở dạ và em bé sơ sinh chào đời.
Đó là cả một thế giới thu nhỏ bị dìm vào cuộc chiến. Không chỉ gia đình tôi, đồng bào tôi mà cả những người da trắng, tiêu biểu là hai người Pháp, một nam một nữ cầm cờ trắng ghi chữ "Báo Chí", cũng đã bị đưa đẩy tới đây.
Đó là sơ lược cảnh tượng ba ngày Tết Mậu Thân tại nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế mà tôi đã chứng kiến, đã viết trong sách và dựng lại trong phim.
BBC : Bà nhắc tới hai nhà báo Pháp. Tâm trạng của bà khi thấy họ và trong suốt thời gian có giao tranh tại Huế ra sao ? Bà cũng nói đã trực tiếp nhìn thấy binh sĩ Cộng sản. Bà có suy nghĩ, tiếp xúc, và đã viết về họ ?
Nhã Ca : Khi hai nhà báo Pháp cầm cờ trắng vào nhà thờ, tôi nghe Cha quản nhiệm nhà thờ nói chuyện với họ bằng tiếng Pháp nhưng tự mình thì không tiếp xúc mà chỉ nhìn.
Nhà báo nữ nhỏ thó, dù mặt mũi thất thần, đã nhanh chóng cầm lại máy ảnh hành nghề. Cô chụp người bị thương, em bé nhay vú mẹ cạn sữa, chụp sản phụ, hài nhi. Ống kính có đưa về phía tôi cùng nụ cười làm thân nhưng đã bị cản lại.
Hình như chính hình ảnh cô lúc ấy nhắc tôi nhớ mình là người cầm bút. Không có ống kính máy ảnh như cô, nhưng vẫn có thể ghi những hình ảnh tức thì bằng tai, bằng mắt để sẽ viết. Dù sao, việc viết sách, làm phim là một tiến trình dài.
hue3
Một phần cuốn Giải Khăn Sô Cho Huế đã được dựng thành phim Đất Khổ, với sự tham gia diễn xuất của nhạc sỹ Trịnh Công Sơn, đệ nhất đào thương Bắc Kỳ di cư 1954 Bích Hợp, kỳ nữ Kim Cương, nhạc sỹ Lê Thương và nhiều gương mặt nổi tiếng khác. Trong hình là một cảnh đêm giao thừa trong phim với Jerry Liles, Trịnh Công Sơn và Vân Quỳnh
Sau trận chiến 26 ngày tại Huế, sống sót trở về Sài Gòn, tôi biết tên cô phóng viên người Pháp là Catherine Leroy, từng bị cộng sản bắt giữ tại Huế trong Tết Mậu Thân nhưng thoát nạn. Tấm hình cô chụp hai chàng lính miền Bắc sau đó xuất hiện trên bìa báo Life với tựa đề "Một Ngày Đáng Nhớ. Kẻ thù để cho tôi chụp hình".
Kẻ thù ư ? Không. Không phải vậy. Hai chàng lính trẻ trong hình và những bộ đội miền Bắc khác, với cô cũng như với những người dân miền Nam như tôi không hề là kẻ thù của nhau. Giữa binh sĩ hai miền cũng vậy. Nơi họ bị đẩy đến, thay vì để giết và bị giết, lẽ ra phải là để được quen biết, để yêu và được yêu.
Chuyện Huế Tết Mậu Thân đầu tiên tôi đã viết và in là "Tình Ca Trong Lửa Đỏ". Đó là chuyện tình yêu giữa chàng lính trẻ miền Bắc dễ thương với một cô gái Huế.
Để biết nhân vật chàng lính Bắc ra sao trước khi bị đẩy vào "chiến trường B", ngay trong năm 1968, tôi đã có dịp trực tiếp thăm hỏi một số chiến binh miền Bắc trong cuộc tổng tấn công, những người đã rời bỏ cộng sản và đang sống tại hải ngoại mà tôi có gặp lại sau này.
Sau đó tôi còn quay lại Huế nhiều lần, đứng với những hình ảnh được khai quật từ các hầm chôn người, dự các đám tang tập thể, cúng giỗ và có thêm 8 truyện ngắn viết cho Huế đổ nát, đau thương.
Riêng "Giải Khăn Sô Cho Huế", một bút ký chạy loạn, kể những chuyện tai nghe mắt thấy, có sao viết vậy.
BBC : Cuốn "Giải Khăn Sô Cho Huế", như bà nói là viết chuyện tai nghe mắt thấy khi chạy loạn. Vậy các thông tin nêu trong đó, như các tên tuổi, địa danh, con số... có độ chính xác, xác thực đến đâu ? Đã từng có ai được nhắc tới trong cuốn sách lên tiếng phản bác một phần hay toàn bộ nội dung hay không ? Nếu có, thì những phản bác đó là gì, và bà đã tiếp nhận, phản hồi ra sao ?
Nhã Ca : Đây chỉ là bút ký, không phải sách nghiên cứu văn chương hay lịch sử, không có loại thông tin sử địa hay con số để đo độ chính xác. Chuyện tai nghe mắt thấy xác thực đến đâu là tùy phán đoán của người đọc hoặc sự đánh giá của các nhà phê bình, nghiên cứu.
Khi cùng các bạn văn nghệ sĩ Sài Gòn đi tù, có lần được công an cộng sản áp tải vào "Nhà Triển Lãm Tội Ác Mỹ Ngụy", đối diện với sách vở miền Nam bị đóng đinh trưng bầy, trong đó có cuốn Giải Khăn Sô Cho Huế được treo cao, chúng tôi đã đứng yên, nhìn thẳng, lặng lẽ chào tác phẩm của mình và bạn hữu.
Sách đã có đó, nhìn nhận nó như thế nào không còn là phần của người viết. Xin lãnh nhận mọi phần số thử thách. Cám ơn và lặng lẽ là đủ.
BBC : Theo bà, người Việt Nam học được gì khi đối diện với các vấn đề lịch sử có ít nhất ba bên, trong đó mỗi bên nói một cách ?
hue4
Mourning Headband for Hue, bản tiếng Anh của Cuốn Giải Khăn Sô Cho Huế do dịch giả Olga Dror (bìa trái) chuyển ngữ, ra mắt hồi 2/2015 và là đề tài hội thảo tại Đại Học Berkeley, California
Nhã Ca : Chắc sẽ học được điều hay, chọn được cái tốt nhất. Trước mọi vấn đề, nếu được tiếp cận và chọn lựa giữa những thông tin đa chiều -"ít nhất ba bên, mỗi bên nói một cách" - thì đó là cơ hội tốt để nhận thức, chọn lựa.
Nhìn lại Việt Nam và các nước cùng cảnh ngộ một thời, sẽ thấy "Ba mươi năm nội chiến từng ngày" chỉ là một cuộc chiến oan nghiệt. Không cần có. Không đáng có. Càng không đáng kéo dài. Vậy mà ngay cả khi bom đạn đã im tiếng, đủ loại vết thương có thật từ cuộc chiến vẫn tiếp tục không được mở ra để chữa trị.
Trong lịch sử Hoa Kỳ, hai năm trước khi Nội Chiến Nam Bắc Mỹ kết thúc, Tổng Thống Abraham Lincoln đã chỉ định "ngày tủi nhục quốc gia" cho nước Mỹ, ngày 30/3/1863. Trong ngày đó ông kêu gọi cả nước cùng nhận chung "tội lỗi dân tộc của chúng ta", cùng nhau xưng tội, cầu nguyện sự khoan dung, tha thứ.
Nội Chiến Hoa Kỳ chấm dứt vào tháng 4/1865. Tất cả tướng tá binh sĩ phe bại trận được giữ tài sản riêng, kể cả súng cá nhân, khi trở về quê quán làm ăn. Lá cờ, tượng đài và nghĩa trang miền Nam bại trận được tôn trọng. Không thấy có người tù đày hay vượt biển. Nước Mỹ mau chóng hàn gắn vết thương, và vững mạnh.
Tháng Tư 1865 của nước Mỹ cách tháng Tư 1975 của Việt Nam 110 năm.
Nước Mỹ đã bắt đầu hàn gắn vết thương ngay sau cuộc chiến. Còn ở Việt Nam, chúng ta đã chờ thêm 43 năm mà vẫn chưa thấy sự hòa giải thực sự. Đó là sự khác biệt dễ thấy.
Lịch sử nhân loại cho thấy mọi cuộc chiến đều yên nghỉ khi được nhìn nhận đúng vị trí của nó, và cuộc sống tiếp tục. Tôi tin sự khôn ngoan của nhân loại. Tôi tin dân tộc tôi từng biết thế nào là truyền thống, là văn hóa, lịch sử. Và tôi luôn vững tin rồi sẽ có một bó nhang chung, một bàn thờ chung, một ngày giỗ chung.
Nguồn : BBC, 26/02/2018
Nhà văn Nhã Ca tên thật là Trần Thị Thu Vân, sinh năm 1939 tại Huế. Hiện sống tại Hoa Kỳ, bà là nhà văn miền Nam đã viết hơn 40 cuốn sách về Cuộc chiến Việt Nam. Cuộc phỏng vấn được thực hiện trong tháng 2/2018, nhân 50 năm trậnTết Mậu Thân.

Thứ Bảy, 24 tháng 2, 2018

Bài học về sự nổi giận của người Việt!


Bài học về sự nổi giận của người Việt!

 Người Việt trải mấy nghìn năm lịch sử, cay đắng và oanh liệt song hành, ngoại bang xâm lược nào cũng đánh thắng, chỉ thua mỗi chính mình


Nước Việt ta kể từ ngày dựng cờ lập quốc, vung gươm mở cõi, chưa bao giờ nước rộng, người đông như ngày nay.
Người Việt trải mấy nghìn năm lịch sử, cay đắng và oanh liệt song hành, ngoại bang xâm lược nào cũng đánh thắng, chỉ thua mỗi chính mình.
Trong chiến tranh giữ nước, người Việt có đủ đức hy sinh, tình đoàn kết và niềm tin sắt đá vào thắng lợi cuối cùng.

Tiếc thay, và có lẽ đó cũng là điều tiếc nhất, trong gần nửa thế kỷ xây dựng kinh tế người Việt dần đánh mất niềm tin vào một bộ phận (khá đông đảo) những người lãnh đạo cũng như không ít định hướng sai lầm trong chỉ đạo, điều hành.
Tình đoàn kết, nghĩa cộng đồng bị mai một mà câu chuyện nông dân “trồng hai luống rau”, cán bộ trồng rau trong nhà (để khỏi phải ăn rau bẩn) chỉ là một trong nhiều biểu hiện.
Thua do mình tự làm hại mình thì còn biết trách ai?
Làm vua, làm lãnh đạo hay dân đen rồi cũng đến lúc chỉ còn ba tấc đất, khác chăng là có người danh lưu trong sách, kẻ khác tiếng để trên đời.
Làm quân vương tránh cho đất nước khỏi binh đao, khỏi cảnh nồi da nấu thịt là vua sáng; tránh cho dân tộc khỏi nỗi sỉ nhục kiếp nô lệ, khiến bất kỳ kẻ ngoại bang nào cũng không dám khinh nhờn, khiến người dân ra nước ngoài có thể ngẩng cao đầu mới là đấng minh quân.
Lãnh đạo một quốc gia, không thể là lãnh đạo một nhóm người, càng không thể là lãnh đạo một dòng tộc.
Đem cái lợi ích của dòng tộc, của thiểu số mà gán cho quốc gia, dân tộc không phải là cách làm của người có tầm nhìn xa trông rộng, càng không phải là cách làm của bậc vĩ nhân.
Suốt chiều dài lịch sử, thời cơ, vận hội của mỗi quốc gia, dân tộc như chim trên trời, như cá dưới nước, không níu kéo được nó sẽ vuột mất.
Ảnh mang tính minh hoạ, nguồn: Báo Hà Nội Mới
Người Việt bước vào năm 2018 với nhiều thành công về kinh tế, với những chuyển biến bước đầu về phòng, chống tham nhũng nhưng vẫn còn đó nỗi đau của cuộc chiến chống xâm lược đầu xuân năm 1979, của vết thương chiến tranh vẫn chưa lành trong gia đình hơn 500.000 liệt sĩ chưa tìm được danh tính, của di chứng chất độc da cam trong thế hệ sinh sau ngày thống nhất đất nước,…
Phải chăng điều quan trọng nhất trong đồ thị hình sin của sự thăng trầm là chúng ta đã vượt qua điểm cực tiểu, đã bắt đầu một chu kỳ cất cánh mới?
Vậy cực tiểu của tình trạng kinh tế xã hội là gì?
Là sự làm ăn thua lỗ triền miên của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước mà nguyên nhân chính là sự yếu kém của những người được giao trọng trách quản lý.
Là tình trạng tham nhũng của một bộ phận không hề nhỏ cán bộ, công chức, đảng viên đến mức nguyên Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan phải nói: “Họ ăn của dân không từ một cái gì”!
Là những quy định mà Nguyên Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng phải thốt lên: “Thủ tục hành chính đối với dân giờ cay nghiệt, độc ác lắm”. [1]
Là tình trạng xuống cấp văn hóa, đạo đức khiến ba ngày tết cũng vẫn có cảnh nổ mìn, giết người khiến cả xã hội bất an.
Là một nền giáo dục mù mờ về định hướng và rối loạn về phương pháp.
Liệt kê hết những “tham nhũng vô bờ” mà một bộ phận chức quyền thực hiện suốt mấy chục năm qua cứ như một giấc mơ hãi hùng khiến đời sau không dám tin nước Việt văn hiến có lúc lại như thế.

May thay điều đó đang bắt đầu biến chuyển.
Năm 2018, năm bản lề thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016-2020.
Lo kinh tế là quan trọng, lo định hướng còn quan trọng hơn.
Chớp mắt một cái đã gần hết thập niên thứ hai của thế kỷ 21.   
Vậy đâu là định hướng của nước Việt ba mươi năm tới, khi nửa thế kỷ đâu tiên của thiên niên kỷ thứ ba sẽ trôi qua?
“Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” là gì? Có phải đã được giải thích bởi các đặc trưng: “Độc lập - Tự do - Hạnh phúc”?
Suốt ba kỳ đại hội, từ Đại hội Đảng lần thứ 10 đến Đại hội 12, định hướng xây dựng nước Việt Nam là: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Có nhất thiết phải có sự khác nhau giữa tên nước và tiêu chí xây dựng đất nước?
Liệu có bộ tiêu chí nào ngắn gọn nhất nhưng lại kết hợp đầy đủ cả “Độc lập, tự do, hạnh phúc” với “Dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh”?
Đích đến của Việt Nam “Dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh” có gì khác với tiêu chí của các nước tiên tiến trên thế giới?
Nếu khác thì cần một con đường mới, nếu không khác thì có nên học tập, đi tắt, đón đầu để rút ngắn thời gian và công sức mà lại tránh được rủi ro đáng tiếc có thể xảy ra?
Quá nhiều tiêu chí quốc gia là văn minh hay manh mún?
Một đất nước diện tích hơn 300.000 km2 mà có tới 63 tỉnh, thành phố là văn minh hay manh mún?
Một nền giáo dục mà có tới ngót trăm đơn vị chủ quản bao gồm các tỉnh, bộ, ngành, tập đoàn, tổ chức chính trị xã hội là văn minh hay manh mún?
Một Chính phủ vừa quản lý, vừa kinh doanh là văn minh hay manh mún?
Sống trong một “không gian manh mún” tầm suy nghĩ của con người liệu có được rộng mở, có thoát khỏi tâm lý chỉ nhìn thấy cây mà không thấy rừng?

Người Việt xưa bị ngoại bang đô hộ hàng nghìn năm, tồn tại là mục tiêu duy nhất.
Có tồn tại, không bị đồng hóa, mới giữ được ngôn ngữ, tín ngưỡng, phong tục, mới quật khởi hết thế hệ này đến thế hệ khác để giành tự do, độc lập.
Ngày nay, người Việt không thể sống theo kiểu “tồn tại” cổ xưa, không thể duy trì nòi giống bằng bất kỳ giá nào.
Mỗi cá nhân - hay suy rộng ra cả một chủng tộc - không thể có trí tuệ minh mẫn trong một cơ thể còi cọc.  
Khi mà nhân loại bước vào kỷ nguyên số, khi nền kinh tế thế giới trở thành nền kinh tế tri thức thì sự còi cọc về thể chất chính là rào cản cho sáng tạo.
Định hướng cho tương lai phải chăng cần phải là chiến lược phát triển con người cả tầm vóc, lòng tự tin và trí thông minh?
Thế giới ngày nay gọi là văn minh, nhưng các nước lớn vẫn âm mưu chia chác trên lưng nước yếu (chứ không phải nước nhỏ).
Nước nhỏ mà có sức mạnh, kinh tế phát triển thì mọi âm mưu sau lưng họ đều phải dè chừng.
Xóa mặc cảm là một nước nghèo, khơi dậy lòng tự tin, giải phóng sự sáng tạo của các nhà khoa học, văn nghệ sĩ, thế hệ trẻ, khích lệ người lao động tự làm chủ vận mệnh của mình,…
Phải chăng đó chính là định hướng mà bất kỳ người lãnh đạo cũng phải ghi nhớ?
Trên thế giới này, những nhân vật vĩ đại nhất như Phật tổ, Chúa Giê-su, Thánh Ala, Khổng tử,… không người nào nắm vương quyền, cũng chẳng ai chinh chiến đánh đông dẹp bắc, họ đều là những nhà tư tưởng, những người truyền bá lòng vị tha, tính cộng đồng và tôn trọng sự đa dạng sinh học của thế giới.

Vấn đề là niềm tin mà họ quảng bá được quần chúng tự nguyện đón nhận chứ không phải bằng những lợi ích vật chất vẽ ra một cách hào nhoáng, càng không phải bằng các biện pháp cưỡng chế.
Giáo hội Thiên chúa đã từng dùng dàn thiêu và các hình phạt khắc nghiệt đối với những tín đồ có chính kiến khác với giáo lý chính thống.
Nhà thiên văn học Galileo Galilei bị Tòa án Dị giáo kết án chung thân vì ông cho rằng trái đất tròn và quay quanh mặt trời.
Phải mất gần 400 năm, sau nhiều cân nhắc, Tòa thánh Vatican mới đi đến quyết định xóa án cho Galileo, gián tiếp nhận lỗi và công nhận hình phạt dành cho Galileo là sai.
Mỗi tôn giáo, mỗi thể chế chính trị ngay khi bắt đầu nắm quyền lực trong tay cũng đồng thời tạo ra lực lượng ủng hộ và chống đối.
Sự tồn tại của hai lực lượng đó chính là động lực của sự phát triển, điều này được khẳng định trong quy luật Mâu thuẫn, một trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật trong triết học Mác - Lênin.
Sẽ là ngây thơ nếu mong muốn cả cộng đồng đều nhìn về một hướng, đều răm tắp tuân theo một hiệu lệnh.
Phủ nhận hay không chấp nhận những quan điểm trái chiều trong dân chúng không chỉ là sai lầm về chiến lược trị quốc mà còn nguy hiểm bởi nó đi ngược mọi quy luật phát triển xã hội loài người.
“Khen đúng chỉ là bạn ta, chê đúng mới là thày ta”, nếu người lãnh đạo chỉ muốn nghe lời khen, họ có thể có nhiều bạn nhưng họ sẽ không có thày, điều này đã được tiền nhân cảnh báo “không thày đố mày làm nên”.
Có hai đối tượng mà người đứng đầu nên sợ: “Sợ dân và sợ chính mình”.

Sợ dân để biết cách làm theo ý dân, để đừng bao giờ xem dân như đối tượng cai trị chứ không phải chủ nhân đất nước.
Sợ chính mình để không phạm sai lầm, để không bị hào quang quyền lực làm lóa mắt, để không vì phe nhóm của mình mà xem nhẹ sơn hà, xã tắc.
Chúng ta nói nhiều về các “nhóm lợi ích” nhưng chưa chỉ ra được cụ thể đặc điểm của những nhóm đó là gì.
Cũng tương tự khái niệm “một bộ phận không nhỏ” cán bộ thoái hóa biến chất nhưng chưa chỉ rõ là những ai, nằm ở đâu?
Nếu khẳng định ở Trung ương không có chuyện chạy chức, chạy quyền như ý kiến của Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng ban Tổ chức Trung ương Phạm Minh Chính thì rõ ràng “bộ phận không nhỏ” hay “nhóm lợi ích” chỉ còn lại ở địa phương, ở các bộ ngành, liệu điều này có hoàn toàn chính xác?
Cuộc chiến chống nội xâm mà cụ thể là chống lại các “nhóm lợi ích” chưa đạt thắng lợi cuối cùng cho thấy có nhiều điều cần được nghiên cứu, hoàn thiện.
Quan trọng nhất hiện nay là xác định “nhóm lợi ích” nào là “mạnh” nhất, có khả năng chi phối cả kinh tế lẫn chính trị - và đương nhiên là cả khả năng chi phối các “nhóm” khác.
Nếu không hoặc chưa xác định được “nhóm lợi ích” đầu sỏ, nếu cứ tập trung vào một số nhóm lợi ích “râu ria” thì khó tránh bị nhân dân nghi ngờ chúng ta mới chỉ đang “ném đá ao bèo”.
Các vụ xem xét kỷ luật, các vụ án điểm liên quan đến ngành ngân hàng, đến các tập đoàn, tổng công ty nhà nước, đến một số cán bộ lãnh đạo cao cấp vừa được xét xử cho thấy đây mới chỉ là những trận đánh mang tính thăm dò đối phương - nói theo ngôn ngữ quân sự là các trận đánh nghi binh.
Trận đánh lớn cuối cùng phải là vào hang ổ của tham nhũng, của nhóm lợi ích, vào thành trì vốn rất khó nhận diện của giặc nội xâm.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nói: “Chống nội xâm khó vì là ta tự đánh vào ta”, cuộc chiến này càng khó hơn vì có lúc “ta” ở đây lại là những hậu duệ hoặc người đã nghỉ hưu chứ không chỉ là những “đồng chí chưa bị lộ”.
Cựu Thủ tướng Trung Quốc Chu Dung Cơ khi bắt đầu cuộc chiến chống tham nhũng đã có câu nói nổi tiếng:
Phải chuẩn bị 100 quan tài, 99 chiếc cho các quan chức tham nhũng và một dành cho bản thân”. [2]
Câu nói của ông Chu Dung Cơ cho thấy chống nội xâm với hành trang là sự liêm khiết chắc chắn chưa đủ mà còn cần dũng khí và sự hy sinh.
Khi người ta ở vào tuổi “cổ lai hy” sống thêm năm nào “lãi” năm ấy thì có gì phải sợ, thế nên người viết tin rằng trong vòng 5-10 năm tới, nhất định cuộc chiến “ta đánh vào ta” sẽ đáp ứng được mong mỏi của toàn dân, sẽ dạy cho đám sâu mọt bài học về sự nổi giận của người Việt.
Tài liệu tham khảo:
Xem thêm:

-Quyền lực trị quốc và vai trò Quân vương

-Hạnh phúc của dân tộc là gì?

Xuân Dương